- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Abbot: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Website: chuaphapluan.com
- View Map
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 16.1.2024
ÍT NGƯỜI HOÀN HẢO Ở ĐỜI
Kinh Tôn Giả Bhaddiya Lùn Thấp
(Lakuṇḍakabhaddiyasuttaṃ)
Tập II – Thiên Nhân Duyên
Chương X. Tương Tỷ Kheo (S.ii,279)
Trong cuộc sống, ít người toàn hảo như ngày xưa người ta thường đòi hỏi ở phụ nữ đầy đủ “công, dung, ngôn, hạnh”. Nếu chỉ lấy ngoại hình để đánh giá con người, thì thường là lầm lẫn lớn. Ngay cả các bậc thánh nhân viên mãn phước hạnh giải thoát, cũng có những vị thân tướng xấu do một nghiệp nào đó từ nhiều đời quá khứ. Người có hiểu biết thì sống với cái nhìn đa số chúng sanh là một hỗn hợp của “nghiệp đen lẩn trắng, từ quá khứ nên hiện kiếp, có cả quả trắng lẫn đen” Đó là lý do “nhân vô thập toàn”.
Kinh văn
Sāvatthiyaṃ viharati. Atha kho āyasmā lakuṇḍakabhaddiyo yena bhagavā tenupasaṅkami. Addasā kho bhagavā āyasmantaṃ lakuṇḍakabhaddiyaṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvāna bhikkhū āmantesi – ‘‘passatha no tumhe, bhikkhave, etaṃ bhikkhuṃ āgacchantaṃ dubbaṇṇaṃ duddasikaṃ okoṭimakaṃ bhikkhūnaṃ paribhūtarūpa’’nti? ‘‘Evaṃ, bhante’’. ‘‘Eso kho, bhikkhave, bhikkhu mahiddhiko mahānubhāvo, na ca sā samāpatti sulabharūpā yā tena bhikkhunā asamāpannapubbā. Yassa catthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti, tadanuttaraṃ brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharatī’’ti.
Ngự ở Sāvatthi.
Bấy giờ Tôn giả Lakuṇṭaka Bhaddiya đi đến Đức Thế Tôn.
Thấy Tôn giả Lakuṇṭaka Bhaddiya từ đằng xa đi đến, Thế Tôn liền nói với chư tỳ khưu:
-- Này chư Tỳ khưu, có thấy vị tỳ khưu đang đi tới (với ngoại hình) xấu xí, không đẹp mắt, gầy còm, bị xem thường giữa những tỳ khưu?
-- Dạ thấy, bạch Đức Thế Tôn.
-- Này chư Tỳ khưu, tỳ khưu ấy có đại thần thông, đại uy lực. Không dễ gì tìm thấy quả chứng mà vị ấy chưa chứng đắc. Vị này còn giác ngộ, chứng đạt, liễu tri cứu cánh phạm hạnh vô thượng ngay trong hiện tại, chính do mục đích này mà các bậc thiện gia nam tử xuất gia từ bỏ thế tục, sống không gia đình.
Idamavoca bhagavā…pe… satthā –
‘‘Haṃsā koñcā mayūrā ca, hatthayo pasadā migā;
Sabbe sīhassa bhāyanti, natthi kāyasmiṃ tulyatā.
‘‘Evameva manussesu, daharo cepi paññavā;
So hi tattha mahā hoti, neva bālo sarīravā’’ti. chaṭṭhaṃ
Đức Thế Tôn thuyết như vậy. Đấng Thiện Thệ, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:
Thiên nga, cò, chim công,
Loài voi và nai đốm
Kích cỡ thân ra sao
Tất cả sợ sư tử
Cũng vậy giữa loài người,
Thân nhỏ mà trí lớn
Ấy là bậc đại nhân
Không như lớn mà dại.
Chú Thích
Tên của Tôn giả có nghĩa là “Bhaddiya lùn thấp”
Theo Sớ Giải thì ngày thường bị “Nhóm Lục Quần Tỳ Khưu (chabbhagiyā bhikkhū)” trêu chọc vì thân tướng.
Theo Sớ giải thì ngoại hình lùn thấp của Tôn giả Bhaddhiya do túc nghiệp vốn là một vị vua, thường chế nhạo và rẻ rúng những người cao niên.
Cũng theo Sớ giải thì Tôn giả Lakuṇṭaka Bhaddiya, dù hình tướng xấu nhưng có âm giọng rất truyền cảm, khi nói chuyện do nghiệp lành kiếp xưa thời Đức Phật Vipassi, với thân chim cu có âm thanh ngọt ngào (cittapattakokilo) đã cúng dường xoài ngọt đến Đức Phật. Do nhân lành này, trong kiếp hiện tại, Tôn giả có âm giọng dễ mến và được Đức Phật xác chứng là bậc có âm giọng thu hút (mañjussara) đệ nhất, trong hàng thinh văn đệ tử.
Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình
6. Lakuṇḍakabhaddiyasuttaṃ
240. Sāvatthiyaṃ viharati. Atha kho āyasmā lakuṇḍakabhaddiyo yena bhagavā tenupasaṅkami. Addasā kho bhagavā āyasmantaṃ lakuṇḍakabhaddiyaṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvāna bhikkhū āmantesi – ‘‘passatha no tumhe, bhikkhave, etaṃ bhikkhuṃ āgacchantaṃ dubbaṇṇaṃ duddasikaṃ okoṭimakaṃ bhikkhūnaṃ paribhūtarūpa’’nti? ‘‘Evaṃ, bhante’’. ‘‘Eso kho, bhikkhave, bhikkhu mahiddhiko mahānubhāvo, na ca sā samāpatti sulabharūpā yā tena bhikkhunā asamāpannapubbā. Yassa catthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti, tadanuttaraṃ brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharatī’’ti. Idamavoca bhagavā…pe… satthā –
‘‘Haṃsā koñcā mayūrā ca, hatthayo pasadā migā;
Sabbe sīhassa bhāyanti, natthi kāyasmiṃ tulyatā.
‘‘Evameva manussesu, daharo cepi paññavā;
So hi tattha mahā hoti, neva bālo sarīravā’’ti. chaṭṭhaṃ
6. Lakuṇḍakabhaddiyasuttavaṇṇanā
240. Chaṭṭhe dubbaṇṇanti virūpasarīravaṇṇaṃ. Okoṭimakanti rassaṃ. Paribhūtarūpanti pamāṇavasena paribhūtajātikaṃ. Taṃ kira chabbaggiyā bhikkhū, ‘‘āvuso bhaddiya, āvuso, bhaddiyā’’ti tattha tattha parāmasitvā nānappakāraṃ kīḷanti ākaḍḍhanti parikaḍḍhanti. Tena vuttaṃ ‘‘paribhūtarūpa’’nti. Kasmā panesa evarūpo jāto? Ayaṃ kira atīte eko mahārājā ahosi, tassa mahallakā ca mahallakitthiyo ca paṭikūlā honti. So sace mahallake passati, tesaṃ cūḷaṃ ṭhapāpetvā kacchaṃ bandhāpetvā yathāruci kīḷāpeti. Mahallakitthiyopi disvā tāsampi icchiticchitaṃ vippakāraṃ katvā yathāruci kīḷāpeti. Tesaṃ puttadhītādīnaṃ santike mahāsārajjaṃ uppajjati. Tassa pāpakiriyā pathavito paṭṭhāya chadevaloke ekakolāhalaṃ akāsi. Atha sakko cintesi – ‘‘ayaṃ andhabālo mahājanaṃ viheṭheti, karissāmissa niggaha’’nti. So mahallakagāmiyavaṇṇaṃ katvā yānake ekaṃ takkacāṭiṃ āropetvā yānaṃ pesento nagaraṃ pavisati. Rājāpi hatthiṃ āruyha nagarato nikkhanto taṃ disvā – ‘‘ayaṃ mahallako takkayānakena amhākaṃ abhimukho āgacchati, vāretha vārethā’’ti āha. Manussā ito cito ca pakkhandantāpi na passanti. Sakko hi ‘‘rājāva maṃ passatu, mā aññe’’ti evaṃ adhiṭṭhahi. Atha tesu manussesu ‘‘kahaṃ, deva, kahaṃ devā’’ti vadantesu eva rājā saha hatthinā vaccho viya dhenuyā yānassa heṭṭhā pāvisi. Sakko takkacāṭiṃ bhindi.
Rājā sīsato paṭṭhāya takkena kilinnasarīro ahosi. So sarīraṃ ubbaṭṭāpetvā uyyānapokkharaṇiyaṃ nhatvā alaṅkatasarīro nagaraṃ pavisanto puna taṃ addasa. Disvā ‘‘ayaṃ so amhehi diṭṭhamahallako puna dissati. Vāretha vāretha na’’nti āha. Manussā ‘‘kahaṃ, deva, kahaṃ, devā’’ti ito cito ca vidhāviṃsu. So paṭhamavippakārameva puna pāpuṇi. Tasmiṃ khaṇe sakko goṇe ca yānañca antaradhāpetvā ākāse ṭhatvā āha, ‘‘andhabāla, tvaṃ mayi takkavāṇijako eso’’ti saññaṃ karosi, sakkohaṃ devarājā, ‘‘tavetaṃ pāpakiriyaṃ nivāressāmī’’ti āgato, ‘‘mā puna evarūpaṃ akāsī’’ti santajjetvā agamāsi. Iminā kammena so dubbaṇṇo ahosi. Vipassīsammāsambuddhakāle panesa cittapattakokilo nāma hutvā kheme migadāye vasanto ekadivasaṃ himavantaṃ gantvā madhuraṃ ambaphalaṃ tuṇḍena gahetvā āgacchanto bhikkhusaṅghaparivāraṃ satthāraṃ disvā cintesi – ‘‘ahaṃ aññesu divasesu rittako tathāgataṃ passāmi. Ajja pana me imaṃ ambapakkaṃ atthi, dasabalassa taṃ dassāmī’’ti otaritvā ākāse carati. Satthā tassa cittaṃ ñatvā upaṭṭhākaṃ olokesi. So pattaṃ nīharitvā dasabalaṃ vanditvā satthu hatthe ṭhapesi. Kokilo dasabalassa patte ambapakkaṃ patiṭṭhāpesi. Satthā tattheva nisīditvā taṃ paribhuñji. Kokilo pasannacitto punappunaṃ dasabalassa guṇe āvajjetvā dasabalaṃ vanditvā attano kulāvakaṃ gantvā sattāhaṃ pītisukheneva vītināmesi. Iminā kammena saro madhuro ahosi. Kassapasammāsambuddhakāle pana cetiye āraddhe ‘‘kiṃpamāṇaṃ karoma? Sattayojanappamāṇaṃ. Atimahantaṃ etaṃ, chayojanappamāṇaṃ karoma. Idampi atimahantaṃ, pañcayojanaṃ karoma, catuyojanaṃ, tiyojanaṃ, dviyojana’’nti. Ayaṃ tadā jeṭṭhakavaḍḍhakī hutvā, ‘‘evaṃ, bho, anāgate sukhapaṭijaggitaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti vatvā rajjuṃ ādāya parikkhipanto gāvutamattake ṭhatvā, ‘‘ekekaṃ mukhaṃ gāvutaṃ hotu, cetiyaṃ yojanāvaṭṭaṃ yojanubbedhaṃ bhavissatī’’ti āha. Te tassa vacane aṭṭhaṃsu. Cetiyaṃ sattadivasasattamāsādhikehi sattahi saṃvaccharehi niṭṭhitaṃ. Iti appamāṇassa buddhassa pamāṇaṃ akāsīti. Tena kammena okoṭimako jāto. Hatthayo pasadā migāti hatthino ca pasadamigā ca. Natthi kāyasmiṃ tulyatāti kāyasmiṃ pamāṇaṃ nāma natthi, akāraṇaṃ kāyapamāṇanti attho. Chaṭṭhaṃ.