Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || HỌC BIẾT SỢ MA - Kinh Ma (Mārasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || HỌC BIẾT SỢ MA - Kinh Ma (Mārasuttaṃ)

Monday, 09/12/2024, 19:58 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 05.10.2024

HỌC BIẾT SỢ MA

Kinh Ma (Mārasuttaṃ)

Tập III – Uẩn

Chương II. Tương Ưng Rādha - Phẩm Thứ Nhất (S,iii,160)

Sợ ma thường được xem là một thứ cảm xúc bản năng hay phản ứng không lý tính. Bảo rằng “phải học để biết sợ ma” nghe như cách nói trái tai. Thực tế thì khái niệm về ma trong ngũ ma bao trùm tất cả khổ đau hệ luỵ trong đời. Chúng sanh sống vô cảm với trần ai khổ lụy giống như câu “điếc không sợ súng”. Phải nhận ra được hiểm hoạ của ma chướng mới có thể khởi sự hành trình vượt thoát lưới ma. Chỉ có sự nhận thức sâu sắc về sanh tử mới tỏ ngộ giá trị của giải thoát niết bàn, như một câu kinh Bắc Phạn: gate gate pāragate pārasamgate Bpbodhi svāhā (Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha).

Kinh văn

160. sāvatthinidānaṃ. atha kho āyasmā rādho yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. ekamantaṃ nisinno kho āyasmā rādho bhagavantaṃ etadavoca —

“‘māro, māro’ti, bhante, vuccati. kittāvatā nu kho, bhante, māro”ti? “rūpe kho, rādha, sati māro vā assa māretā vā yo vā pana mīyati. tasmātiha tvaṃ, rādha, rūpaṃ māroti passa, māretāti passa, mīyatīti passa, rogoti passa, gaṇḍoti passa, sallanti passa, aghanti passa, aghabhūtanti passa. ye naṃ evaṃ passanti te sammā passanti. vedanāya sati... saññāya sati... saṅkhāresu sati... viññāṇe sati māro vā assa māretā vā yo vā pana mīyati. tasmātiha tvaṃ, rādha, viññāṇaṃ māroti passa, māretāti passa, mīyatīti passa, rogoti passa, gaṇḍoti passa, sallanti passa, aghanti passa, aghabhūtanti passa. ye naṃ evaṃ passanti, te sammā passantī”ti.

“sammādassanaṃ pana, bhante, kimatthiyan”ti? “sammādassanaṃ kho, rādha, nibbidatthaṃ”. “nibbidā pana, bhante, kimatthiyā”ti? “nibbidā kho, rādha, virāgatthā”. “virāgo pana, bhante, kimatthiyo”ti? “virāgo kho, rādha, vimuttattho”. “vimutti pana, bhante, kimatthiyā”ti? “vimutti kho, rādha, nibbānatthā”. “nibbānaṃ pana, bhante, kimatthiyan”ti? “accayāsi {accasarā (sī. syā. kaṃ.), assa (pī.), accayā (ka.)}, rādha, pañhaṃ, nāsakkhi pañhassa pariyantaṃ gahetuṃ. nibbānogadhañhi, rādha, brahmacariyaṃ vussati, nibbānaparāyanaṃ nibbānapariyosānan”ti. paṭhamaṃ.

Nhân duyên ở Sāvatthi.

Bấy giờ, Tôn giả Rādha đi đến Đức Thế Tôn, đảnh lễ Ngài, ngồi xuống một bên và bạch rằng: "Bạch Thế Tôn, khi nói 'māra, māra'. Vậy, bạch Thế Tôn, ‘māra’ là gì?"

“Này Rādha, khi có sắc, có thể có ‘māra’ – là sát thủ hay kẻ bị sát hại. Vì vậy, Rādha, hãy xem sắc như là ‘māra’, xem nó là sát thủ hay kẻ bị sát hại. Hãy xem nó như là một căn bệnh, một khối u, một mũi tên, là khổ đau, là sự khổ đau thật sự. Những ai thấy nó như vậy là thấy chân xác.”

“Khi có thọ... khi có tưởng... khi có hành... khi có thức, này Rādha, có thể có māra – là sát thủ hay kẻ bị sát hại. Vì vậy, Rādha, hãy xem sắc như là Māra, xem nó là sát thủ hay kẻ bị sát hại. Hãy xem nó như là một căn bệnh, một khối u, một mũi tên, là khổ đau, là sự khổ đau thật sự. Những ai thấy nó như vậy là thấy chân xác.”

"Bạch Thế Tôn, mục đích của việc thấy chân xác là gì?"

"Mục đích của việc thấy chân xác, này Rādha, là nhàm chán."

“Và bạch Thế Tôn, mục đích của nhàm chán là gì?”

"Mục đích của nhàm chán là ly tham."

"Và bạch Thế Tôn, mục đích của ly tham là gì?"

"Mục đích của sự ly tham là giải thoát."

"Và bạch Thế Tôn, mục đích của giải thoát là gì?"

"Mục đích của giải thoát là Niết Bàn."

"Và bạch Thế Tôn, mục đích của Niết Bàn là gì?"

 "Này Rādha, Thầy đã đi vượt khỏi phạm vi của vấn đề rồi. Thầy không nắm bắt được giới hạn của vấn đề. Này Rādha, vì phạm hạnh được sống với Niết Bàn là nền tảng, Niết Bàn là đích đến, Niết Bàn là mục tiêu cuối cùng."

Chú thích

Rādha là một bà la môn ở Rājagaha, người đã xuất gia khi tuổi đã cao. Đức Phật tuyên bố, ông là vị đứng đầu trong số những người có thể truyền cảm hứng sáng tạo cho người khác (etadaggam patibhānakeyyānam; AN I 25,15). Vị này có hai bài kệ trong Trưởng Lão Tăng Kệ Th 133-34 (= Dhp 13-14). Theo Sớ Giải của Tương Ưng Bộ, thì bất cứ khi nào Đức Như Lai nhìn thấy vị trưởng lão này, một đề tài vi tế xuất hiện trong tâm Ngài. Vì vậy, Đức Thế Tôn đã giảng dạy Pháp cho Tôn giả Rādha theo nhiều cách khác nhau. Trong Samyutta này, hai ‘vagga’ đầu được truyền lại qua hình thức câu hỏi, vagga thứ ba qua yêu cầu, vagga thứ tư qua hình thức đối thoại thân mật (upanisinnakakathā, nghĩa là "cuộc trò chuyện khi ngồi gần").

Chữ “ma” trong tiếng Việt có gốc từ chữ Hán. Chữ “ma” trong Hán tự có gốc từ Phạm ngữ. Nguyên nghĩa chữ “ma” trong Phật học và trong văn hoá Thiên Trúc, có nghĩa là cái gì mang lại đau khổ, phiền lụy, cám dỗ tội lỗi. Māra trong Phật Pháp bao gồm ngũ ma (pañcamāra):

1Thiên madevaputtamāra),2Phiền não ma kilesamāra),3Ngũ uẩn ma khandhamāra),4Pháp hành ma hay nghiệp lực maabhisankhāramāra).5Tử thần ma maccumāra

Chữ “ma” trong cách dùng quen thuộc trong ngôn ngữ dân gian Việt Nam thường được hiểu là những oan hồn. Và người ta thường nghĩ ma ít đáng sợ hơn quỷ và quỷ ít đáng sợ hơn yêu tinh. Chữ “ma” trong Phật học chỉ cho cái gì rộng hơn tất cả những từ yêu tinh, quỷ, ma… thường được nói.

Theo Sớ Giải, chữ "Māra" trong bài kinh này là ẩn dụ cho tử thần ma và ngũ uẩn ma (maranamāra và khandhamāra).

Māro vā assa māretā vā yo vā pana mīyati. Spk chú giải từ “māretā” là “māretabbo”, nhưng từ này rõ ràng là một danh từ chia theo chủ cách.

Vimutti kho Rādha nibbānathā. Spk: "Sự giải thoát của quả chứng" này nhằm mục đích đạt đến Niết Bàn không còn chấp thủ (phalavimutti nām’ esā anupādānibbānatthā).

Đoạn này cũng xuất hiện tại 48:42 (V 218,19-21) và MN I 304,20-22. Bản Miến Điện thường xuyên đọc động từ là “accayāsi” (quá khứ của atiyāti), còn bản Tích Lan là “accasarā” (quá khứ của atisarati). Theo ngài Bodhi, chữ “ass” ở đây và phần “jhaparam” trong Bản Anh ngữ bên dưới có thể xuất phát từ các bản thảo bị lỗi.

Câu cuối cùng là: “Nibbānogadham hi Rādha brahmacariyam vussati nibbānaparāyanam nibbānapariyosānam”. Nhiều dịch giả hiểu “nibbānogadha” là "nhảy vào Niết Bàn" hoặc "thể nhập Niết Bàn", điều này được các chú giải khuyến khích bằng cách liên kết “ogadha” với “ogāha”, nghĩa là một cú nhảy (từ động từ “ogāhati” - nhảy vào). Tuy nhiên, “ogadha” thực ra là một biến thể của “ogādha”, từ động từ “ogādhati”, mà các chú giải coi là đồng nghĩa với “patitthahati”, nghĩa là "được thiết lập". Họ xác nhận điều này bằng cách nhất quán chú giải “ogadha” là “patitthā”, nghĩa là "nền tảng". Để tham khảo, xem CPD, mục từ “ogadha, ogādhati, ogāha” và cách sử dụng từ “gādha”, cả theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, trong I, v. 263. MW định nghĩa “gādha” (từ gốc “gādh - đứng vững”) là một nền tảng để đứng trên nước, một chỗ cạn, một bến đỗ.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.

Dưới đây là bản Việt dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu

I. Màra (Tạp 6, Ðại 2,39b) (S.iii,188)

1) Nhân duyên ở Sàvatthi.

2) Rồi Tôn giả Ràdha đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ràdha bạch Thế Tôn:

-- "Màra, Màra", bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, được gọi là Màra?

4) -- Nếu có sắc, này Ràdha, thời có chết (Màra) hay có sát giả (Màretà), hay có sự chết (Miiyati). Do vậy, này Ràdha, Ông hãy thấy sắc là sự chết, hãy thấy là sát giả, hãy thấy là bị chết, hãy thấy là bệnh, hãy thấy là ung nhọt, hãy thấy là mũi tên, hãy thấy là bất hạnh, hãy thấy tự tánh là bất hạnh. Những ai thấy sắc như vậy là thấy chơn chánh.

5-7) ... Thọ... tưởng... các hành...

8) Nếu có thức, này Ràdha, thời có chết, hay có sát giả, hay có bị chết. Do vậy, này Ràdha, Ông hãy thấy thức là sự chết, hãy thấy là sát giả, hãy thấy là bị chết, hãy thấy là bệnh hoạn, hãy thấy là ung nhọt, hãy thấy là mũi tên, hãy thấy là bất hạnh, hãy thấy tự tánh là bất hạnh. Những ai thấy thức như vậy là thấy chơn chánh.

9) -- Bạch Thế Tôn, chánh quán với mục đích gì?

-- Chánh quán, này Ràdha, với mục đích nhàm chán.

10) -- Bạch Thế Tôn, nhàm chán với mục đích gì?

-- Nhàm chán, này Ràdha, với mục đích ly tham.

11) -- Bạch Thế Tôn, ly tham với mục đích gì?

-- Ly tham, này Ràdha, với mục đích được giải thoát.

12) -- Bạch Thế Tôn, giải thoát với mục đích gì?

-- Giải thoát, này Ràdha, với mục đích Niết-bàn.

13) -- Bạch Thế Tôn, Niết-bàn với mục đích gì?

-- Này Ràdha, Ông đi quá xa với câu hỏi này, không thế nắm được giới hạn của câu hỏi. Nhập vào Niết-bàn, này Ràdha, là sự thực hành Phạm hạnh; Niết-bàn là mục tiêu cuối cùng; Niết-bàn là cứu cánh.

Sớ Giải

160. rādhasaṃyuttassa paṭhame māro vā assāti maraṇaṃ vā bhaveyya. māretā vāti māretabbo vā. yo vā pana mīyatīti yo vā pana marati. nibbidatthanti nibbidāñāṇatthaṃ. nibbānatthāti phalavimutti nāmesā anupādānibbānatthāti attho. accayāsīti atikkantosi. nibbānogadhanti nibbāne patiṭṭhitaṃ. idaṃ maggabrahmacariyaṃ nāma nibbānabbhantare vussati, na nibbānaṃ atikkamitvāti attho. nibbānapariyosānanti nibbānaṃ assa pariyosānaṃ, nipphatti niṭṭhāti attho. paṭhamaṃ.

Māro vā assāti: "Có thể có Māra" nghĩa là có thể có sự chết.

Maraṇaṃ vā bhaveyya: Có thể có sự chết.

Māretā vāti: "Māretabbo vā" nghĩa là có thể là kẻ giết.

Yo vā pana mīyatīti: "Yo vā pana marati" nghĩa là hoặc là người bị giết.

Nibbidatthanti: "Nibbidāñāṇatthaṃ" nghĩa là với mục đích đạt được trí tuệ về sự nhàm chán (nhìn thấy rõ bản chất thật của sự vật dẫn đến sự nhàm chán đối với chúng).

Nibbānatthāti: Nghĩa là với mục đích đạt được Niết Bàn, tức là đạt được quả giải thoát (phalavimutti). "Anupādānibbānatthaṃ" có nghĩa là đạt đến Niết Bàn không còn sự chấp thủ.

Accayāsīti: "Atikkantosi" nghĩa là con đã vượt qua (giới hạn của câu hỏi).

Nibbānogadhanti: "Nibbāne patiṭṭhitaṃ" nghĩa là đặt vững vào Niết Bàn.

Idaṃ maggabrahmacariyaṃ nāma nibbānabbhantare vussati: "Đời sống thánh thiện này được sống trong Niết Bàn, không vượt quá Niết Bàn." Tức là đời sống này luôn hướng đến Niết Bàn và không vượt quá mục đích của nó.

Nibbānapariyosānanti: Nghĩa là Niết Bàn là mục tiêu cuối cùng. "Nipphatti niṭṭhāti" nghĩa là sự hoàn thành, đạt đến đích cuối cùng.