- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Abbot: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Website: chuaphapluan.com
- View Map
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 24.8.2022
ĐỪNG NÓI ĐẠO KHẢ ĐẠO PHI THƯỜNG ĐẠO
Kinh Hơn Một Nghìn (Parosahassasuttaṃ)
(CHƯƠNG VIII. TƯƠNG ƯNG TRƯỞNG LÃO VAṄGĪSA) (S. i, 192)
Đạo Đức Kinh của Lão Trang nói rằng “Đạo mà nói được thì không phải là chân đạo”. Ngôn ngữ không thể nói hết những đạo lý thâm sâu nên người ta nói đến “vô ngôn”. Niết bàn vốn vượt ngoài khả năng biểu đạt của ngôn ngữ. Đức Phật, bậc Vô Thượng Điều Ngự, đã có những lời dạy về niết bàn và con đường đến niết bàn. Ngài không có dụng ý là dùng ngôn ngữ để minh hoạ trọn vẹn nhưng trong cách “tạm mượn ngôn từ mà nói” cũng đủ để bậc trí hoan hỷ với niết bàn, tinh cần trên hành trình đến cứu cánh niết bàn, và chứng ngộ niết bàn. Không im lặng với điều khó diễn tả, không thúc thủ trước hành trình cao vợi, không chỉ tán thán mà còn phân tích rõ ràng phương cách đạt đến đích điểm tối hậu. Cảm nhận được “sự khéo thuyết” của Bậc Đạo Sư, vị đệ tử vốn là một thi nhân lão luyện trong ngôn từ không thể không buông lời tán thán.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ aḍḍhatelasehi bhikkhusatehi. Tena kho pana samayena bhagavā bhikkhū nibbānapaṭisaṃyuttāya dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti. Te ca bhikkhū aṭṭhiṃ katvā manasi katvā sabbacetasā samannāharitvā ohitasotā dhammaṃ suṇanti. Atha kho āyasmato vaṅgīsassa etadahosi – ‘‘ayaṃ kho bhagavā bhikkhū nibbānapaṭisaṃyuttāya dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti. Te ca bhikkhū aṭṭhiṃ katvā manasi katvā sabbacetasā samannāharitvā ohitasotā dhammaṃ suṇanti. Yaṃnūnāhaṃ bhagavantaṃ sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthaveyya’’nti.
Một thuở Đức Thế Tôn ngự tại tại Jetavana – ngôi già lam do ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc) dâng cúng ở Sāvatthi, cùng với đại chúng tỳ khưu một ngàn hai trăm năm mươi vị.
Bấy giờ Đức Thế Tôn thuyết pháp về Niết bàn khiến chư tỳ khưu hoan hỷ, phấn khởi, gội nhuần tâm ý. Chư tỳ khưu nghe pháp với sự lóng tai, hướng tâm, tập trung.
Rồi Tôn giả Vaṅgīsa suy nghĩ: "Nay Đức Thế Tôn thuyết pháp về Niết bàn khiến chư tỳ khưu hoan hỷ, phấn khởi, gội nhuần tâm ý. Chư tỳ khưu nghe pháp với sự lóng tai, hướng tâm, tập trung. Vậy trước mặt Thế Tôn, ta hãy nói lên kệ ngôn tán thán thích hợp.
Atha kho āyasmā vaṅgīso uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘paṭibhāti maṃ bhagavā, paṭibhāti maṃ sugatā’’ti. ‘‘Paṭibhātu taṃ, vaṅgīsā’’ti bhagavā avoca.
Lúc ấy Tôn giả Vaṅgīsa từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay hướng về Thế Tôn và bạch rằng:
--Bạch Thế Tôn, cảm khái khởi lên trong tâm con. Bạch Thiện Thệ, cảm khái khởi lên trong tâm con.
Đức Thế Tôn nói:
-- Này Vaṅgīsa, hãy đọc lên cảm khái ấy.
Atha kho āyasmā vaṅgīso bhagavantaṃ sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthavi –
‘‘Parosahassaṃ bhikkhūnaṃ, sugataṃ payirupāsati;
Desentaṃ virajaṃ dhammaṃ, nibbānaṃ akutobhayaṃ.
‘‘Suṇanti dhammaṃ vimalaṃ, sammāsambuddhadesitaṃ;
Sobhati vata sambuddho, bhikkhusaṅghapurakkhato.
‘‘Nāganāmosi bhagavā, isīnaṃ isisattamo;
Mahāmeghova hutvāna, sāvake abhivassati.
‘‘Divāvihārā nikkhamma, satthudassanakamyatā;
Sāvako te mahāvīra, pāde vandati vaṅgīso’’ti.
Rồi Tôn giả Vaṅgīsa trước mặt Thế Tôn, nói lên kệ ngôn tán thán thích hợp:
“Hơn một ngàn tỳ khưu
Phụng hành bậc Thiện Thệ
Ngài thuyết pháp vô cấu
Niết bàn vô sở uý.
“Họ nghe pháp - vô - nhiễm
Bậc Toàn Giác truyền dạy
Bậc Đại Giác chói sáng
Tỷ khưu Tăng kính ngưỡng
Thế Tôn, bậc Long Tượng
Bậc giác ngộ tối thượng
Như mây trời vần vũ
Cho chúng con mưa pháp
“Từ tịnh cư đến đây
Mong diện kiến Đạo Sư
Đệ tử Vaṅgīsa
Đảnh lễ dưới chân Ngài
Bậc Đại Hùng cao cả.
‘‘Kiṃ nu te, vaṅgīsa, imā gāthāyo pubbe parivitakkitā, udāhu ṭhānasova taṃ paṭibhantī’’ti? ‘Na kho me, bhante, imā gāthāyo pubbe parivitakkitā, atha kho ṭhānasova maṃ paṭibhantī’ti. ‘Tena hi taṃ, vaṅgīsa, bhiyyosomattāya pubbe aparivitakkitā gāthāyo paṭibhantū’ti.
-- Này Vaṅgīsa, những kệ ngôn nầy đã được trước tác từ trước hay ứng khẩu tại chỗ?
-- Bạch Thế Tôn, những kệ ngôn nầy con ứng khẩu tại chỗ chứ không phải trước tác từ trước.
-- Vậy này Vaṅgīsa, hãy nói lên nhiều hơn những kệ ngôn ứng khẩu không chuẩn bị trước.
-- Dạ vâng bạch Thế Tôn.
‘Evaṃ, bhante’ti kho āyasmā vaṅgīso bhagavato paṭissutvā bhiyyosomattāya bhagavantaṃ pubbe aparivitakkitāhi gāthāhi abhitthavi –
‘‘Ummaggapathaṃ mārassa abhibhuyya, carati pabhijja khilāni;
Taṃ passatha bandhapamuñcakaraṃ, asitaṃ bhāgaso pavibhajaṃ.
‘‘Oghassa nittharaṇatthaṃ, anekavihitaṃ maggaṃ akkhāsi;
Tasmiñce amate akkhāte, dhammaddasā ṭhitā asaṃhīrā.
‘‘Pajjotakaro ativijjha, sabbaṭṭhitīnaṃ atikkamamaddasa;
Ñatvā ca sacchikatvā ca, aggaṃ so desayi dasaddhānaṃ.
‘‘Evaṃ sudesite dhamme,
Ko pamādo vijānataṃ dhammaṃ;
Tasmā hi tassa bhagavato sāsane;
Appamatto sadā namassamanusikkhe’’ti.
Tôn giả Vaṅgīsa vâng lời Đức Thế Tôn và nói lên những kệ ngôn xưng tán ứng khẩu không chuẩn bị trước.
“Thoát ác đạo của Ma
Ngài hành trình vô ngại
Nhìn Ngài không vướng mắc
Phân rõ đạo huyền vi.
“Dạy đạo nhiều phương diện
Giúp đời vượt cuồng lưu
Những giác giả bất thối
Trong cảnh giới bất tử.
“Bậc Cầm Đuốc thấy rõ
Từng công đoạn chuyển hoá
Tự liễu tri chứng ngộ
Rồi khai thị Năm-Thầy.
“Khi Pháp được thiện thuyết
Ai hiểu lại chẳng tu?
Tinh cần trong Pháp Phật
Luôn cung kính phụng hành.
‘‘Ummaggapathaṃ mārassa abhibhuyya, carati pabhijja khilāni = Thoát ác đạo của Ma, Ngài hành trình không ngăn ngại.
Taṃ passatha bandhapamuñcakaraṃ, asitaṃ bhāgaso pavibhajaṃ = Hãy nhìn Ngài, bậc đoạn mọi trói buộc, không vướng mắc, phân tích chánh pháp.
‘‘Oghassa nittharaṇatthaṃ, anekavihitaṃ maggaṃ akkhāsi = Ngài đã tuyên thuyết con đường với nhiều phương diện giúp chúng con vượt cuồng lưu.
Tasmiñce amate akkhāte dhammaddasā ṭhitā asaṃhīrā =Những bậc kiến giả bất động trong cảnh giới bất tử do Ngài tuyên thuyết.
‘‘Pajjotakaro ativijjha, sabbaṭṭhitīnaṃ atikkamamaddasa = Bậc cầm đuốc soi đường, nhìn xuyên suốt, thấy được sự chuyển hoá trong tất cả giai đoạn
Ñatvā ca sacchikatvā ca, aggaṃ so desayi dasaddhānaṃ = Sau khi liễu tri và tỏ ngộ Ngài đã thuyết giảng cho “nhóm năm thầy (Kiều Trần Như)”
‘‘Evaṃ sudesite dhamme = Khi chánh pháp khéo thuyết như vậy
Ko pamādo vijānataṃ dhammaṃ = ai là người biết được lại có thể chễnh mảng?
Tasmā hi tassa bhagavato sāsane Appamatto sadā namassamanusikkhe’’ti = nên chi chúng con tinh cần phụng hành trong giáo pháp của Đức Thế Tôn.
Bài kinh nầy có điểm rất khó dịch là cụm từ isīnaṃ isisattamo. Có hai cách giải thích theo Sớ Giải và Hậu Sớ Giải. Trên phương diện văn cú theo thể biền ngẫu của thi từ thì có thể dịch là “Bậc Đại Sĩ trong bảy Đại Sĩ” ý nói là là một trong Thất Phật tính từ Đức Phật Vipassī (Tỳ Bà Thi) đối xứng với phần sau với câu “Bậc thầy dạy cho Nhóm Năm Thầy”. Trên phương diện thuần ngữ pháp thì chữ sattama là biến thể của sant nên được hiểu là “sattamo uttaro settḥo – cao quý nhất giữa những con người cao quý” chỉ cho Đức Phật là bậc vô thượng năng nhân.
Theo Sớ giải thì cụm từ ummaggapathaṃ Mārassa – ác đạo của Ma chỉ cho hành trì luân hồi sanh tử với vô số phiền não thô tế.
Câu Tasmiñce amate akkhāte được Sớ giải giảng rộng là amate akkhāte ti amatāvahe dhamme desite (Pháp bất tử do Ngài tuyên thuyết đưa đến cảnh giới bất tử)
Chữ dasaddhānaṃ (dịch nghĩa đen là “phân nữa của mười” tức là số năm) chỉ cho năm vị Kiều Trần Như là nhóm tỳ khưu đầu tiên được khai thị. Đây là cách dùng chữ rất khéo để kết cấu thi từ theo luật về âm vận.
Sớ Giải cũng ghi rằng sở dĩ Đức Phật hỏi những kệ ngôn do làm trước hay ứng khẩu vì có một số tỳ khưu phê bình Tôn giả Vaṅgīsa “cả ngày cứ lo làm thơ” mà không hiểu là đó là tài hoa không cần nắn nót. Tôn giả chỉ cần trực tiếp cảm khái là có thể nói lên những vần thơ tuyệt mỹ. Đây cũng là một đặc hạnh vẫn còn sau khi chứng quả A la hán.
Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình
8. Parosahassasuttaṃ [Mūla]
216. Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ aḍḍhatelasehi bhikkhusatehi. Tena kho pana samayena bhagavā bhikkhū nibbānapaṭisaṃyuttāya dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti. Te ca bhikkhū aṭṭhiṃ katvā manasi katvā sabbacetasā samannāharitvā ohitasotā dhammaṃ suṇanti. Atha kho āyasmato vaṅgīsassa etadahosi – ‘‘ayaṃ kho bhagavā bhikkhū nibbānapaṭisaṃyuttāya dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti. Te ca bhikkhū aṭṭhiṃ katvā manasi katvā sabbacetasā samannāharitvā ohitasotā dhammaṃ suṇanti. Yaṃnūnāhaṃ bhagavantaṃ sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthaveyya’’nti.
Atha kho āyasmā vaṅgīso uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘paṭibhāti maṃ bhagavā, paṭibhāti maṃ sugatā’’ti. ‘‘Paṭibhātu taṃ, vaṅgīsā’’ti bhagavā avoca. Atha kho āyasmā vaṅgīso bhagavantaṃ sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthavi –
‘‘Parosahassaṃ bhikkhūnaṃ, sugataṃ payirupāsati;
Desentaṃ virajaṃ dhammaṃ, nibbānaṃ akutobhayaṃ.
‘‘Suṇanti dhammaṃ vimalaṃ, sammāsambuddhadesitaṃ;
Sobhati vata sambuddho, bhikkhusaṅghapurakkhato.
‘‘Nāganāmosi bhagavā, isīnaṃ isisattamo;
Mahāmeghova hutvāna, sāvake abhivassati.
‘‘Divāvihārā nikkhamma, satthudassanakamyatā [satthudassanakāmatā (sī. syā. kaṃ.)];
Sāvako te mahāvīra, pāde vandati vaṅgīso’’ti.
‘‘Kiṃ nu te, vaṅgīsa, imā gāthāyo pubbe parivitakkitā, udāhu ṭhānasova taṃ paṭibhantī’’ti? ‘Na kho me, bhante, imā gāthāyo pubbe parivitakkitā, atha kho ṭhānasova maṃ paṭibhantī’ti. ‘Tena hi taṃ, vaṅgīsa, bhiyyosomattāya pubbe aparivitakkitā gāthāyo paṭibhantū’ti. ‘Evaṃ, bhante’ti kho āyasmā vaṅgīso bhagavato paṭissutvā bhiyyosomattāya bhagavantaṃ pubbe aparivitakkitāhi gāthāhi abhitthavi –
‘‘Ummaggapathaṃ [ummaggasataṃ (syā. kaṃ. ka.)] mārassa abhibhuyya, carati pabhijja khilāni;
Taṃ passatha bandhapamuñcakaraṃ, asitaṃ bhāgaso pavibhajaṃ.
‘‘Oghassa nittharaṇatthaṃ, anekavihitaṃ maggaṃ akkhāsi;
Tasmiñce amate akkhāte, dhammaddasā ṭhitā asaṃhīrā.
‘‘Pajjotakaro ativijjha [ativijjha dhammaṃ (sī. syā. kaṃ.)], sabbaṭṭhitīnaṃ atikkamamaddasa;
Ñatvā ca sacchikatvā ca, aggaṃ so desayi dasaddhānaṃ.
‘‘Evaṃ sudesite dhamme,
Ko pamādo vijānataṃ dhammaṃ [ko pamādo vijānataṃ (sī. syā. kaṃ.)];
Tasmā hi tassa bhagavato sāsane;
Appamatto sadā namassamanusikkhe’’ti.
8. Parosahassasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]
216. Aṭṭhame parosahassanti atirekasahassaṃ. Akutobhayanti nibbāne kutoci bhayaṃ natthi, nibbānappattassa vā kutoci bhayaṃ natthīti nibbānaṃ akutobhayaṃ nāma. Isīnaṃ isisattamoti vipassito paṭṭhāya isīnaṃ sattamako isi.
Kiṃ nu te vaṅgīsāti idaṃ bhagavā atthuppattivasena āha. Saṅghamajjhe kira kathā udapādi ‘‘vaṅgīsatthero vissaṭṭhavatto, neva uddese, na paripucchāya, na yonisomanasikāre kammaṃ karoti, gāthā bandhanto cuṇṇiyapadāni karonto vicaratī’’ti. Atha bhagavā cintesi – ‘‘ime bhikkhū vaṅgīsassa paṭibhānasampattiṃ na jānanti, cintetvā cintetvā vadatīti maññanti, paṭibhānasampattimassa jānāpessāmī’’ti cintetvā, ‘‘kiṃ nu te vaṅgīsā’’tiādimāha.
Ummaggapathanti anekāni kilesummujjanasatāni, vaṭṭapathattā pana pathanti vuttaṃ. Pabhijja khilānīti rāgakhilādīni pañca bhinditvā carasi. Taṃ passathāti taṃ evaṃ abhibhuyya bhinditvā carantaṃ buddhaṃ passatha. Bandhapamuñcakaranti bandhanamocanakaraṃ. Asitanti anissitaṃ. Bhāgaso pavibhajanti satipaṭṭhānādikoṭṭhāsavasena dhammaṃ vibhajantaṃ. Pavibhajjāti vā pāṭho, aṅgapaccaṅgakoṭṭhāsavasena vibhajitvā vibhajitvā passathāti attho.
Oghassāti caturoghassa. Anekavihitanti satipaṭṭhānādivasena anekavidhaṃ. Tasmiṃ ca amate akkhāteti tasmiṃ tena akkhāte amate. Dhammaddasāti dhammassa passitāro. Ṭhitā asaṃhīrāti asaṃhāriyā hutvā patiṭṭhitā.
Ativijjhāti ativijjhitvā. Sabbaṭṭhitīnanti sabbesaṃ diṭṭhiṭṭhānānaṃ viññāṇaṭṭhitīnaṃ vā. Atikkamamaddasāti atikkamabhūtaṃ nibbānamaddasa. Agganti uttamadhammaṃ. Aggeti vā pāṭho, paṭhamataranti attho. Dasaddhānanti pañcannaṃ, aggadhammaṃ pañcavaggiyānaṃ, agge vā pañcavaggiyānaṃ dhammaṃ desesīti attho. Tasmāti yasmā esa dhammo sudesitoti jānantena ca pamādo na kātabbo, tasmā. Anusikkheti tisso sikkhā sikkheyya. Aṭṭhamaṃ.