Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || DẤU HIỆU XUỐNG CẤP - Kinh Suy Thoái (Parihānadhammasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || DẤU HIỆU XUỐNG CẤP - Kinh Suy Thoái (Parihānadhammasuttaṃ)

Friday, 11/04/2025, 02:51 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 5.4.2025

DẤU HIỆU XUỐNG CẤP

Kinh Suy Thoái (Parihānadhammasuttaṃ)

Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Những Bộ Sáu (SN.35.96)

Một trong những kỹ năng thiết yếu của hành giả là nhận diện sớm dấu hiệu lui sụt trên đường tu. Tà tư duy – những dòng suy nghĩ nghiêng về dục, sân, hay hại – chính là điểm mấu chốt để “bắt mạch” tâm. Khi các tư duy ấy xuất hiện thường xuyên, mãnh liệt, đó là dấu hiệu cho thấy thiện pháp đang suy giảm. Đức Phật dạy phải quán sát kỹ lúc mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm và ý khởi tưởng – vì chính tại các căn môn này, vọng tâm dễ sinh khởi. Người biết chế ngự và gìn giữ sáu căn, không để tâm chạy theo cảnh, là người đã làm chủ thân tâm.

Kinh Văn

96. “parihānadhammañca vo, bhikkhave, desessāmi aparihānadhammañca cha ca abhibhāyatanāni. taṃ suṇātha. kathañca, bhikkhave, parihānadhammo hoti? idha, bhikkhave, bhikkhuno cakkhunā rūpaṃ disvā uppajjanti pāpakā akusalā sarasaṅkappā {akusalā dhammā sarasaṅkappā (syā. kaṃ. pī. ka.) upari āsīvisavagge sattamasutte pana “ākusalā sarasaṅkappā” tveva sabbattha dissati} saṃyojaniyā. tañce bhikkhu adhivāseti nappajahati na vinodeti na byantīkaroti {byantikaroti (pī.) byantiṃ karoti (ka.)} na anabhāvaṃ gameti, veditabbametaṃ, bhikkhave, bhikkhunā — ‘parihāyāmi kusalehi dhammehi’. parihānañhetaṃ vuttaṃ bhagavatāti ... pe ....

 “puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhuno jivhāya rasaṃ sāyitvā uppajjanti ... pe ... puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhuno manasā dhammaṃ viññāya uppajjanti pāpakā akusalā sarasaṅkappā saṃyojaniyā. tañce bhikkhu adhivāseti nappajahati na vinodeti na byantīkaroti na anabhāvaṃ gameti, veditabbametaṃ, bhikkhave, bhikkhunā — ‘parihāyāmi kusalehi dhammehi’. parihānañhetaṃ vuttaṃ bhagavatāti. evaṃ kho, bhikkhave, parihānadhammo hoti.

“kathañca, bhikkhave, aparihānadhammo hoti? idha, bhikkhave, bhikkhuno cakkhunā rūpaṃ disvā uppajjanti pāpakā akusalā sarasaṅkappā saṃyojaniyā. tañce bhikkhu nādhivāseti pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gameti, veditabbametaṃ, bhikkhave, bhikkhunā — ‘na parihāyāmi kusalehi dhammehi’. aparihānañhetaṃ vuttaṃ bhagavatāti ... pe ....

“puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhuno jivhāya rasaṃ sāyitvā uppajjanti ... pe ... puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhuno manasā dhammaṃ viññāya uppajjanti pāpakā akusalā sarasaṅkappā saṃyojaniyā. tañce bhikkhu nādhivāseti pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gameti, veditabbametaṃ, bhikkhave, bhikkhunā — ‘na parihāyāmi kusalehi dhammehi’. aparihānañhetaṃ vuttaṃ bhagavatāti. evaṃ kho, bhikkhave, aparihānadhammo hoti.

 “katamāni ca, bhikkhave, cha abhibhāyatanāni? idha, bhikkhave, bhikkhuno cakkhunā rūpaṃ disvā nuppajjanti pāpakā akusalā sarasaṅkappā saṃyojaniyā. veditabbametaṃ, bhikkhave, bhikkhunā — ‘abhibhūtametaṃ āyatanaṃ’. abhibhāyatanañhetaṃ vuttaṃ bhagavatāti ... pe ... puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhuno manasā dhammaṃ viññāya nuppajjanti pāpakā akusalā dhammā sarasaṅkappā saṃyojaniyā. veditabbametaṃ, bhikkhave, bhikkhunā — ‘abhibhūtametaṃ āyatanaṃ’. abhibhāyatanañhetaṃ vuttaṃ bhagavatāti. imāni vuccanti, bhikkhave, cha abhibhāyatanānī”ti. tatiyaṃ.

“Này các Tỳ khưu, Ta sẽ giảng cho các thầy về người bị thối thất, người không bị thối thất và về sáu xứ được làm chủ. Hãy lắng nghe…

[Người Bị Thối thất]

Và này các Tỳ khưu, thế nào là người bị thối thất?

Ở đây, một Tỳ khưu khi thấy sắc bằng mắt, khởi lên các pháp ác, bất thiện – những ký ức và tư duy liên hệ đến các kiết sử.

Nếu vị Tỳ khưu ấy chấp nhận, không từ bỏ, không xua đuổi, không đoạn trừ và không làm tiêu mất chúng, thì nên hiểu như sau:

“Ta đang thối thất khỏi các thiện pháp.”

Bởi vì, điều này đã được Thế Tôn gọi là sự thối thất.

Lại nữa, này các Tỳ khưu, khi một Tỳ khưu nghe âm thanh bằng tai… hoặc nhận biết cảnh pháp bằng ý, khởi lên các pháp ác, bất thiện – những ký ức và tư duy liên hệ đến các kiết sử.

Nếu vị ấy chấp nhận và không từ bỏ, thì nên hiểu:

“Ta đang thối thất khỏi các thiện pháp.” Vì điều này đã được Thế Tôn gọi là sự thối thất.

Này các Tỳ khưu, đó là cách một người bị thối thất.

[Người Không Bị Thối thất]

Và này các Tỳ khưu, thế nào là người không bị thối thất?

Ở đây, một Tỳ khưu khi thấy sắc bằng mắt, khởi lên các pháp ác, bất thiện – những ký ức và tư duy liên hệ đến các kiết sử.

Nhưng nếu vị ấy không chấp nhận, mà từ bỏ, xua đuổi, đoạn trừ và làm tiêu mất chúng, thì nên hiểu:

“Ta không bị thối thất khỏi các thiện pháp.”

Vì điều này đã được Thế Tôn gọi là không thối thất.

Cũng vậy, khi vị ấy nghe âm thanh bằng tai… hoặc nhận biết cảnh pháp bằng ý và nếu vị ấy không dung chứa các pháp bất thiện mà từ bỏ và đoạn trừ chúng, thì nên hiểu:

“Ta không bị thối thất khỏi các thiện pháp.” Vì điều này đã được Thế Tôn gọi là không thối thất.

Này các Tỳ khưu, đó là cách một người không bị thối thất.

[Sáu Xứ Được Làm Chủ]

Và này các Tỳ khưu, thế nào là sáu xứ được làm chủ?

Ở đây, một Tỳ khưu khi thấy sắc bằng mắt, không khởi lên các pháp ác, bất thiện – không có các ký ức hay tư duy liên hệ đến các kiết sử.

Vị ấy nên hiểu:

“Xứ này đã được làm chủ.”

Vì điều này đã được Thế Tôn gọi là xứ được làm chủ.

Tương tự, này các Tỳ khưu, khi một Tỳ khưu nghe âm thanh bằng tai… hoặc nhận biết cảnh pháp bằng ý, mà không khởi lên các pháp ác, bất thiện, thì vị ấy nên hiểu:

“Xứ này đã được làm chủ.”

Này các Tỳ khưu, đó là sáu xứ được làm chủ.

Chú Thích

Sarasaṅkappa saṃyojaniya – Những tư duy (ý định) có tính ghi nhớ, liên kết với kiết sử.

Sāratthappakāsinī (Sớ giải của Bộ Tăng Chi) giải thích "sara" là từ "saranti" (chạy, di chuyển), được chú thích thêm là "dhavanti" (chạy nhanh). Tuy nhiên, bản dịch ở đây chọn cách hiểu "sara" là “nhớ lại” – cũng là gốc của từ sati, mang nghĩa vừa là ký ức vừa là chánh niệm.

Ở đây “sarasaṅkappa” được hiểu là những tư duy có tính hồi tưởng, những dòng tưởng nhớ đến những cảnh dục, oán hận, hay triền phược trong tâm – chúng có liên kết với kiết sử (saṃyojana), tức là các trói buộc tâm linh như tham, sân, si, ngã mạn...

Cha abhibhāyatanāni – Sáu xứ được làm chủ.

Sớ giải chú thích rằng đây là “abhibhāvitāni āyatanāni” – nghĩa là các xứ đã được chế ngự/ vượt qua.

Tuy nhiên, cần lưu ý: Sáu xứ này khác hoàn toàn với “tám thắng xứ (aṭṭha abhibhāyatanāni)” được nhắc đến trong Trường Bộ (DN I 110–111) và Trung Bộ (MN I 13–14) – vốn liên quan đến các tầng thiền sắc và vô sắc trong thiền định.

Ở đây, “sáu xứ được làm chủ” là sáu căn môn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) đã được hành giả huấn luyện kỹ càng, đến mức khi tiếp xúc với cảnh, không khởi lên pháp bất thiện. Tức là căn đã được chế ngự, không còn bị cảnh chi phối.

Sớ Giải

96. tatiye parihānadhammanti parihānasabhāvaṃ. abhibhāyatanānīti abhibhavitāni āyatanāni. sarasaṅkappāti ettha sarantīti sarā, dhāvantīti attho. sarā ca te saṅkappā ca sarasaṅkappā. saṃyojaniyāti bandhaniyā bandhanassa paccayabhūtā. tañce bhikkhūti taṃ evaṃ uppannaṃ kilesajātaṃ, taṃ vā ārammaṇaṃ. adhivāsetīti citte āropetvā vāseti. nappajahatīti chandarāgappahānena na pajahati. evaṃ sabbapadehi yojetabbaṃ. abhibhāyatanañhetaṃ vuttaṃ bhagavatāti etaṃ buddhena bhagavatā abhibhavitaṃ āyatananti kathitaṃ. idha dhammaṃ pucchitvā vibhajantena puggalena dhammo dassito.

Giải thích thuật ngữ và nội dung – Kinh 96 (Tatiya):

parihānadhammanti: “Pháp đưa đến thoái hóa” – tức là tánh chất, bản chất của sự thối thất, chỉ các điều kiện làm cho thiện pháp suy giảm.

abhibhāyatanānīti: “Các xứ được làm chủ (abhibhāyatana)” – tức là những căn môn đã được vượt qua, chế ngự; nghĩa đen: “các xứ đã bị chinh phục”.

sarasaṅkappā: Ở đây, “sarantīti sarā” nghĩa là: “sarā” là những gì ghi nhớ, hồi tưởng. “dhāvantīti attho”: cũng có nghĩa là “chạy theo, trôi theo” (hướng ra ngoài).
Do đó, “sarasaṅkappā” là những tư tưởng có tính chất hồi tưởng, chạy theo cảnh – tức là các tư duy hoài niệm, vọng tưởng, nhất là những tư duy liên hệ đến kiết sử (tham, sân, si...).

saṃyojaniyā: nghĩa là: “bandhaniyā” – những gì có tính trói buộc. “bandhanassa paccayabhūtā” – tức là nguyên nhân của sự trói buộc. Những tư duy ấy là duyên sanh ra sự trói buộc, khiến tâm bị ràng buộc trong luân hồi.

tañce bhikkhu: nếu vị Tỷ-kheo ấy, khi có những phiền não ấy sinh khởi… “taṃ evaṃ uppannaṃ kilesajātaṃ, taṃ vā ārammaṇaṃ”: nghĩa là phiền não đã sinh, hoặc cảnh (ārammaṇa) kích hoạt phiền não đó.

adhivāseti: để nó ngự trị trong tâm, an trú, chấp nhận nó mà không chống lại. Gốc từ “citte āropetvā vāseti”: đặt nó vào tâm và để nó ở đó.

nappajahatīti: không từ bỏ tức không từ bỏ bằng cách đoạn trừ tham ái (chanda-rāga-pahāna).

evaṃ sabbapadehi yojetabbaṃ: Tất cả các từ ngữ còn lại trong đoạn kinh cũng nên hiểu và áp dụng theo cách này (nối lại theo cùng nguyên tắc).

abhibhāyatanañhetaṃ vuttaṃ bhagavatāti: Điều này là do Đức Phật đã tuyên bố: “Xứ này đã được làm chủ (abhibhūta)”.

etaṃ buddhena bhagavatā abhibhavitaṃ āyatanaṃ ti kathitaṃ:  Nghĩa là: “Xứ này đã được Đức Phật chế ngự – nên được gọi là ‘xứ được làm chủ’.”

idha dhammaṃ pucchitvā vibhajantena puggalena dhammo dassito: Trong trường hợp này, Dhamma (pháp) được hiển bày bởi một người đã hỏi pháp và phân tích – tức là người biết đặt câu hỏi và chia chẻ vấn đề.

Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu

96. III. Thối Ðọa (Parihànam) (S.iv,76)

1) ...

2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Ông về pháp thối đọa, pháp bất thối đọa và sáu thắng xứ.

3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp thối đọa?

4-6) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sau khi mắt thấy sắc, các ác, bất thiện pháp; các ức niệm tư duy liên hệ đến kiết sử được khởi lên. Nếu Tỷ-kheo đón nhận chúng (adhivàseti), không từ bỏ, không đoạn trừ, không tiêu diệt, không khiến chúng không thể sanh khởi, thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: "Ta làm thối thất các thiện pháp". Ðây Như Lai gọi là pháp thối đọa,... tai nghe tiếng... mũi ngửi hương...

7-8) ... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc...

9) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, sau khi ý nhận thức pháp, các ác, bất thiện pháp; các ức niệm tư duy liên hệ đến kiết sử được khởi lên. Nếu Tỷ-kheo đón nhận chúng, không từ bỏ, không đoạn trừ, không tiêu diệt, không khiến chúng không thể sanh khởi, thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: "Ta làm thối thất các thiện pháp". Ðây Như Lai gọi là pháp thối đọa.

10) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là pháp thối đọa.

11) Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là pháp bất thối đọa?

12-24) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sau khi mắt thấy sắc, các ác, bất thiện pháp; các ức niệm tư duy liên hệ đến kiết sử được khởi lên. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không có đón nhận chúng, từ bỏ, đoạn trừ, tiêu diệt, khiến chúng không thể sanh khởi, thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: "Ta không làm thối thất các thiện pháp". Ðây Như Lai gọi là pháp bất thối đọa.... tai nghe tiếng... mũi ngửi hương...

15-16) ... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc...

17) Ở đây, này các Tỷ-kheo, sau khi ý nhận thức pháp, các ác, bất thiện pháp; các ức niệm tư duy liên hệ đến kiết sử được khởi lên. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không có đón nhận chúng, từ bỏ, đoạn trừ, tiêu diệt, khiến chúng không thể sanh khởi, thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: "Ta không làm thối thất các thiện pháp". Ðây Như Lai gọi là pháp bất thối đọa.

18) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là pháp bất thối đọa.

19) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sáu thắng xứ?

20-24) Ở đây, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo sau khi mắt thấy sắc, các ác, bất thiện pháp; các ức niệm tư duy liên hệ đến kiết sử không khởi lên. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: "Xứ này đã được nhiếp phục". Và Như Lai gọi đây là thắng xứ... tai...mũi... lưỡi... thân...

25) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo sau khi ý nhận thức pháp, các ác bất thiện pháp; các ức niệm tư duy liên hệ đến kiết sử không khởi lên. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: "Xứ này đã được nhiếp phục". Và Như Lai gọi đây là thắng xứ.