Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || CƯ TRẦN PHẢI BIẾT CÁCH BẤT NHIỄM TRẦN - Kinh Con Voi (Nāgasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || CƯ TRẦN PHẢI BIẾT CÁCH BẤT NHIỄM TRẦN - Kinh Con Voi (Nāgasuttaṃ)

Tuesday, 26/12/2023, 19:31 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 26.12.2023

CƯ TRẦN PHẢI BIẾT CÁCH BẤT NHIỄM TRẦN

Kinh Con Voi (Nāgasuttaṃ)

Tập II – Thiên Nhân Duyên

Chương XI. Tương Ưng Thí Dụ (S,ii,267)

Cùng một hoàn cảnh sống, nhưng có người giữ được cõi lòng thanh thản, có kẻ lại không. Cùng đi trong sương sớm, có người vô sự nhưng có kẻ bị trúng sương ngã bệnh. Không phải thấy người làm được, thì ỷ lại mình cũng vậy thôi. Danh lợi có thể là phù du với người thật sự trưởng thành trong đạo giải thoát, nhưng lại là mãnh lực làm điên đảo những ai chưa thật sự vững vàng. Biết tự lượng sức mình là bí quyết quan trọng.

Kinh văn

Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena aññataro navo bhikkhu ativelaṃ kulāni upasaṅkamati. Tamenaṃ bhikkhū evamāhaṃsu – ‘‘māyasmā ativelaṃ kulāni upasaṅkamī’’ti. So bhikkhu bhikkhūhi vuccamāno evamāha – ‘‘ime hi nāma therā bhikkhū kulāni upasaṅkamitabbaṃ maññissanti, kimaṅgaṃ panāha’’nti?

Tôi được nghe như vầy,

Một thuở Đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ Viên), ngôi già lam do ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc) dâng cúng.

Bấy giờ, có một tỳ khưu mới xuất gia lui tới các gia đình cư sĩ quá nhiều. Những tỳ khưu khác nói với vị ấy: “Hiền giả không nên lui tới với các gia đình cư sĩ quá nhiều như vậy”. Nghe nói vậy vị tỳ khưu mới tu trả lời: “Những trưởng lão tỳ khưu cũng đi đến các gia đình như vậy sao tôi lại không được?”

Atha kho sambahulā bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘idha, bhante, aññataro navo bhikkhu ativelaṃ kulāni upasaṅkamati. Tamenaṃ bhikkhū evamāhaṃsu – ‘māyasmā ativelaṃ kulāni upasaṅkamī’ti. So bhikkhu bhikkhūhi vuccamāno evamāha – ‘ime hi nāma therā bhikkhū kulāni upasaṅkamitabbaṃ maññissanti, kimaṅgaṃ panāha’’’nti.

Rồi một số tỳ khưu đi đến Đức Thế Tôn, đảnh lễ và ngồi một bên. Các vị ấy bạch với Đức Thế Tôn:

-- Bạch Đức Thế Tôn, có một tỳ khưu mới xuất gia lui tới các gia đình cư sĩ quá nhiều. Những tỳ khưu khác nói với vị ấy: “Hiền giả không nên lui tới với các gia đình cư sĩ quá nhiều như vậy”. Nghe nói vậy vị tỳ khưu mới tu trả lời: “Những trưởng lão tỳ khưu cũng đi đến các gia đình như vậy sao tôi lại không được?”

‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, araññāyatane mahāsarasī. Taṃ nāgā upanissāya viharanti. Te taṃ sarasiṃ ogāhetvā soṇḍāya bhisamuḷālaṃ abbuhetvā suvikkhālitaṃ vikkhāletvā akaddamaṃ saṅkhāditvā ajjhoharanti. Tesaṃ taṃ vaṇṇāya ceva hoti balāya ca, na ca tatonidānaṃ maraṇaṃ vā nigacchanti maraṇamattaṃ vā dukkhaṃ. Tesaṃyeva kho pana, bhikkhave, mahānāgānaṃ anusikkhamānā taruṇā bhiṅkacchāpā taṃ sarasiṃ ogāhetvā soṇḍāya bhisamuḷālaṃ abbuhetvā na suvikkhālitaṃ vikkhāletvā sakaddamaṃ asaṅkhāditvā ajjhoharanti. Tesaṃ taṃ neva vaṇṇāya hoti na balāya. Tatonidānaṃ maraṇaṃ vā nigacchanti maraṇamattaṃ vā dukkhaṃ.

-- Này chư Tỳ Khưu, thuở xưa, có bầy voi lớn sống ven hồ nước lớn trong khu rừng. Các con voi đi xuống hồ dùng vòi nhổ lên các củ sen và ngó sen rửa sạch bùn rồi ăn. Nhờ ăn như vậy các con voi sống khoẻ khoắn, tươi tắn. Và không vì sự ăn uống vậy mà chết hay đau khổ gần chết.

Một số các con voi nhỏ học đòi theo những con voi lớn, cũng xuống hồ dùng vòi nhỗ lên các củ sen và ngó sen nhưng không biết rửa sạch bùn để ăn. Do ăn củ sen và ngó sen dính đầy bùn như vậy, các con voi nhỏ bị bệnh, tiều tuỵ. Và vì vậy mà chết hay đau khổ gần chết.

 

‘‘Evameva kho, bhikkhave, idha therā bhikkhū pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya gāmaṃ vā nigamaṃ vā piṇḍāya pavisanti. Te tattha dhammaṃ bhāsanti. Tesaṃ gihī pasannākāraṃ karonti. Te taṃ lābhaṃ agadhitā amucchitā anajjhopannā ādīnavadassāvino nissaraṇapaññā paribhuñjanti. Tesaṃ taṃ vaṇṇāya ceva hoti balāya ca, na ca tatonidānaṃ maraṇaṃ vā nigacchanti maraṇamattaṃ vā dukkhaṃ. Tesaṃyeva kho pana, bhikkhave, therānaṃ bhikkhūnaṃ anusikkhamānā navā bhikkhū pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya gāmaṃ vā nigamaṃ vā piṇḍāya pavisanti. Te tattha dhammaṃ bhāsanti. Tesaṃ gihī pasannākāraṃ karonti. Te taṃ lābhaṃ gadhitā mucchitā ajjhopannā anādīnavadassāvino anissaraṇapaññā paribhuñjanti. Tesaṃ taṃ neva vaṇṇāya hoti na balāya, te tatonidānaṃ maraṇaṃ vā nigacchanti maraṇamattaṃ vā dukkhaṃ. Tasmātiha, bhikkhave, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘agadhitā amucchitā anajjhopannā ādīnavadassāvino nissaraṇapaññā taṃ lābhaṃ paribhuñjissāmā’ti. Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabba’’nti.

Này chư Tỳ Khưu, ở đây cũng giống như vậy, các trưởng lão tỳ khưu vào buổi sáng đắp y, cầm bát và y (kép) đi vào làng hay phố thị khất thực. Tại đây các vị thuyết pháp và những cư sĩ thể hiện lòng tin đối với những vị ấy. Các tỳ khưu ấy thọ dụng sự cúng dường với tâm không mê đắm, không bị chi phối, biết rõ sự nguy hại, biết rõ sự xuất ly bằng trí tuệ. Các tỳ khưu thọ dụng như vậy được khang kiện, tăng tướng tốt đẹp, không bị khổ luỵ mạng vong hay dở sống dở chết.

Nhưng này chư Tỳ Khưu, ở đây một số các tỳ khưu mới xuất gia học theo các trưởng lão tỳ khưu vào buổi sáng đắp y, cầm bát và y (kép) đi vào làng hay phố thị khất thực. Tại đây các vị thuyết pháp và những cư sĩ thể hiện lòng tin đối với những vị ấy. Các tỳ khưu ấy thọ dụng sự cúng dường với tâm mê đắm, bị chi phối, không biết rõ sự nguy hại, không biết rõ sự xuất ly bằng trí tuệ. Do các tỳ khưu thọ dụng như vậy bị bệnh hoạ tiều tuỵ, bị khổ luỵ mạng vong hay dở sống dở chết.

Này chư Tỳ khưu, do vậy các thầy cần tu tập như sau: “Chúng ta thọ dụng sự cúng dường với tâm không mê đắm, không bị chi phối, biết rõ sự nguy hại, biết rõ sự xuất ly bằng trí tuệ”.

Này chư Tỳ khưu, các thầy cần tu tập như vậy.

Chú Thích

Thí dụ về con voi trong bài kinh này tìm thấy trong Luật Tạng ( Vin II 120) liên quan tới Devadatta.

Theo Sớ Giải thì câu “những cư sĩ thể hiện lòng tin đối với những vị ấy” có nghĩa là phát tâm cúng dường tứ sự (pasannākāraṃ karonti).

Tỳ khưu Giác Đẳng soạn dịch

9. Nāgasuttaṃ

231. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena aññataro navo bhikkhu ativelaṃ kulāni upasaṅkamati. Tamenaṃ bhikkhū evamāhaṃsu – ‘‘māyasmā ativelaṃ kulāni upasaṅkamī’’ti. So bhikkhu bhikkhūhi vuccamāno evamāha – ‘‘ime hi nāma therā bhikkhū kulāni upasaṅkamitabbaṃ maññissanti, kimaṅgaṃ [kimaṅga (sī.)] panāha’’nti?

Atha kho sambahulā bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘idha, bhante, aññataro navo bhikkhu ativelaṃ kulāni upasaṅkamati. Tamenaṃ bhikkhū evamāhaṃsu – ‘māyasmā ativelaṃ kulāni upasaṅkamī’ti. So bhikkhu bhikkhūhi vuccamāno evamāha – ‘ime hi nāma therā bhikkhū kulāni upasaṅkamitabbaṃ maññissanti, kimaṅgaṃ panāha’’’nti.

‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, araññāyatane mahāsarasī. Taṃ nāgā upanissāya viharanti. Te taṃ sarasiṃ ogāhetvā soṇḍāya bhisamuḷālaṃ abbuhetvā [abbhūhetvā (ka.), abbāhitvā (mahāva. 278)] suvikkhālitaṃ vikkhāletvā akaddamaṃ saṅkhāditvā [saṅkharitvā (pī. ka.)] ajjhoharanti. Tesaṃ taṃ vaṇṇāya ceva hoti balāya ca, na ca tatonidānaṃ maraṇaṃ vā nigacchanti maraṇamattaṃ vā dukkhaṃ. Tesaṃyeva kho pana, bhikkhave, mahānāgānaṃ anusikkhamānā taruṇā bhiṅkacchāpā taṃ sarasiṃ ogāhetvā soṇḍāya bhisamuḷālaṃ abbuhetvā na suvikkhālitaṃ vikkhāletvā sakaddamaṃ asaṅkhāditvā ajjhoharanti. Tesaṃ taṃ neva vaṇṇāya hoti na balāya. Tatonidānaṃ maraṇaṃ vā nigacchanti maraṇamattaṃ vā dukkhaṃ.

‘‘Evameva kho, bhikkhave, idha therā bhikkhū pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya gāmaṃ vā nigamaṃ vā piṇḍāya pavisanti. Te tattha dhammaṃ bhāsanti. Tesaṃ gihī pasannākāraṃ karonti. Te taṃ lābhaṃ agadhitā amucchitā anajjhopannā [anajjhāpannā (sabbattha) ma. ni. 1 pāsarāsisuttavaṇṇanā oloketabbā] ādīnavadassāvino nissaraṇapaññā paribhuñjanti. Tesaṃ taṃ vaṇṇāya ceva hoti balāya ca, na ca tatonidānaṃ maraṇaṃ vā nigacchanti maraṇamattaṃ vā dukkhaṃ. Tesaṃyeva kho pana, bhikkhave, therānaṃ bhikkhūnaṃ anusikkhamānā navā bhikkhū pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya gāmaṃ vā nigamaṃ vā piṇḍāya pavisanti. Te tattha dhammaṃ bhāsanti. Tesaṃ gihī pasannākāraṃ karonti. Te taṃ lābhaṃ gadhitā mucchitā ajjhopannā anādīnavadassāvino anissaraṇapaññā paribhuñjanti. Tesaṃ taṃ neva vaṇṇāya hoti na balāya, te tatonidānaṃ maraṇaṃ vā nigacchanti maraṇamattaṃ vā dukkhaṃ. Tasmātiha, bhikkhave, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘agadhitā amucchitā anajjhopannā ādīnavadassāvino nissaraṇapaññā taṃ lābhaṃ paribhuñjissāmā’ti. Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabba’’nti. Navamaṃ.

9. Nāgasuttavaṇṇanā

231. Navame ativelanti atikkantavelaṃ kālaṃ atikkantappamāṇaṃ kālaṃ. Kimaṅgaṃ panāhanti ahaṃ pana kiṃkāraṇā na upasaṅkamissāmi? Bhisamuḷālanti bhisañceva muḷālañca. Abbuhetvāti uddharitvā. Bhiṅkacchāpāti hatthipotakā. Te kira abhiṇhaṃ bhiṅkārasaddaṃ karonti, tasmā bhiṅkacchāpāti vuccanti. Pasannākāraṃ karontīti pasannehi kattabbākāraṃ karonti, cattāro paccaye denti. Dhammaṃ bhāsantīti ekaṃ dve jātakāni vā suttante vā uggaṇhitvā asambhinnena sarena dhammaṃ desenti. Pasannākāraṃ karontīti tesaṃ tāya desanāya pasannā gihī paccaye denti. Neva vaṇṇāya hoti na balāyāti neva guṇavaṇṇāya, na ñāṇabalāya hoti, guṇavaṇṇe pana parihāyante sarīravaṇṇopi sarīrabalampi parihāyati, tasmā sarīrassa neva vaṇṇāya na balāya hoti. Navamaṃ.