Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || CÓ NHIỀU NHƯNG HƯỞNG BAO NHIÊU VÀ BAO LÂU? - Kinh Phân Bò (Gomayapiṇḍasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || CÓ NHIỀU NHƯNG HƯỞNG BAO NHIÊU VÀ BAO LÂU? - Kinh Phân Bò (Gomayapiṇḍasuttaṃ)

, 03/08/2024, 10:05 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bāi học ngāy 3.8.2024

CÓ NHIỀU NHƯNG HƯỞNG BAO NHIÊU VÀ BAO LÂU?

Kinh Phân Bò (Gomayapiṇḍasuttaṃ)

Tập III – Uẩn

Chương I. Tương Ưng Uẩn-Phần II-Phẩm Hoa (S,iii,96)

Sự khao khát muôn đời của chúng sanh là muốn được những cái tốt nhất và có được thật nhiều. Đức Phật dạy nên suy xét dù có thật nhiều như một vị vua, kể cả chuyển luân vương, có hàng ngàn tuấn mã thì khi cưỡi chỉ một con thôi. Hơn thế nữa, cho dù có những cái tốt nhất ở đời thì bản thân đâu thể lột da sống đời mà hưởng mãi. Với sự quán chiếu bản chất vô thường của vạn hữu thì tất cả giá trị phù hoa không hơn giá trị của mảnh phân bò khô.

Kinh văn

Nhân duyên tại Sāvatthī. Bấy giờ có một vị tỳ khưu ngồi một bên, bạch với Đức Thế Tôn:

_"Bạch Thế Tôn, có sắc nào là thường hằng, ổn định, vĩnh cửu, không chịu sự biến đổi và sẽ tồn tại mãi mãi như chính sự vĩnh cửu không? Bạch Thế Tôn, có cảm thọ nào... có tưởng nào... có hành nào... có thức nào là thường hằng, ổn định, vĩnh cửu, không chịu sự thay đổi và sẽ tồn tại mãi mãi như chính sự vĩnh cửu không?"

 _"Này Tỳ khưu, không có sắc nào là thường hằng, ổn định, vĩnh cửu, không chịu sự thay đổi và sẽ tồn tại mãi mãi như chính sự vĩnh cửu. Không có cảm thọ nào... không có tưởng nào... không có hành nào... không có thức nào là thường hằng, ổn định, vĩnh cửu, không chịu sự thay đổi và sẽ tồn tại mãi mãi như chính sự vĩnh cửu."

Sau đó, Đức Thế Tôn cầm một mảnh phân bò nhỏ trong tay và nói với vị tỳ khưu: “Này Tỳ khưu, ngay cả sự tồn tại của một cá thể cũng không phải là thường hằng, ổn định, vĩnh cửu, không chịu sự thay đổi và sẽ tồn tại mãi mãi như chính sự vĩnh cửu. Nếu có sự tồn tại của một cá thể mà là thường hằng, ổn định, vĩnh cửu, không chịu sự thay đổi, thì cuộc sống phạm hạnh để hoàn toàn diệt khổ sẽ không thể được ghi nhận. Nhưng vì không có sự tồn tại của một cá thể nào là thường hằng, ổn định, vĩnh cửu, không chịu sự thay đổi, nên cuộc sống phạm hạnh để hoàn toàn diệt khổ mới được ghi nhận.”

“Trong quá khứ, này tỳ khưu, ta từng là một vị vua dòng sát đế lỵ đã làm lễ quán đảnh. Ta có hàng ngàn thành phố, trong đó thành phố chính là thủ đô Kusāvatī. Ta có hàng ngàn cung điện, trong đó cung điện chính là cung điện tên Dhamma. Ta có hàng ngàn hội trường mái nhọn, trong đó hội trường chính là hội trường Mahābyūha. Ta có hàng ngàn giường nệm làm bằng ngà, gỗ lõi, vàng và bạc, trang trí bằng những tấm phủ lông dài, thêu hoa, với những tấm phủ lựa chọn làm từ da linh dương, với màn che đỏ phía trên và gối đỏ ở hai đầu.”

“Ta có hàng ngàn voi đực với đồ trang trí vàng và cờ vàng, che phủ bằng lưới vàng, trong đó voi đực chính là voi chúa Uposatha. Ta có hàng ngàn ngựa với đồ trang trí vàng và cờ vàng, che phủ bằng lưới vàng, trong đó ngựa chính là tuấn mã Valāhaka. Ta có hàng ngàn xe ngựa với đồ trang trí vàng và cờ vàng, che phủ bằng lưới vàng, trong đó xe ngựa chính là xe Vejayanta.”

“Ta có hàng ngàn ngọc, trong đó ngọc chính là viên ngọc bảo. Ta có hàng ngàn phụ nữ, trong đó chính thất là hoàng hậu Subhaddā. Ta có hàng ngàn quan Khattiya, trong đó quan chính là thống soái. Ta có hàng ngàn con bò với dây buộc bằng đay tốt và thùng sữa bằng đồng. Ta có hàng ngàn kho vải làm từ vải lanh tốt, lụa tốt, len tốt, bông tốt. Ta có hàng ngàn đĩa ăn mà bữa ăn của ta được dọn lên cả buổi sáng và buổi tối.”

“Trong số hàng ngàn thành phố ấy, này tỳ khưu, chỉ có một thành phố mà ta ở thời đó là kinh đô Kusāvatī. Trong số hàng ngàn cung điện ấy, chỉ có một cung điện mà ta ở thời đó: cung điện Dhamma. Trong số hàng ngàn hội trường mái nhọn ấy, chỉ có một hội trường mái nhọn mà ta ở thời đó: hội trường Mahābyūha. Trong số hàng ngàn giường nệm ấy, chỉ có một giường nệm mà ta sử dụng thời đó, làm bằng ngà, gỗ lõi, vàng hoặc bạc.”

“Trong số hàng ngàn voi ấy, chỉ có một voi mà ta cưỡi thời đó, là tượng chúa Uposatha. Trong số hàng ngàn ngựa ấy, chỉ có một ngựa mà ta cưỡi thời đó, tuấn mã Valāhaka. Trong số hàng ngàn xe ngựa ấy, chỉ có một xe ngựa mà ta đi thời đó, long xa Vejayanta.”

“Trong số hàng ngàn phụ nữ ấy, chỉ có một phụ nữ mà phục vụ ta thời đó, hoặc là một thiếu nữ khattiya hoặc là một thiếu nữ velāmika. Trong số hàng ngàn kho vải ấy, chỉ có một bộ vải mà ta mặc thời đó, làm từ vải lanh tốt, lụa tốt, len tốt hoặc bông tốt. Trong số hàng ngàn đĩa ăn ấy, chỉ có một đĩa ăn mà ta ăn thời đó, chỉ với một phần cơm và món cà ri thượng vị.”

“Vì vậy, này tỳ khưu, tất cả những hành ấy đã qua, đã diệt, đã biến đổi. Các hành là vô thường, tỳ khưu, các hành là không ổn định, các hành là không đáng tin cậy. Quá đủ để nhàm chán đối với tất cả hành, quá đủ để ly tham, quá đủ để giải thoát.”

Chú Thích

Câu chuyện tiền thân của Đức Phật là một bậc chuyển luân vương đề cập trong bài kinh này chính là câu chuyện vua Mahāsudassana (Đại Thiện Kiến) Kinh số 17, Trường Bộ.

Con số “tám muôn bốn ngàn (84,000) - caturāsīti sahassāni” –“ là hư số trong Phạm ngữ được dùng như thành ngữ”. Trong bản dịch này dùng cụm từ “hàng ngàn” chỉ cho “thật nhiều”.

Phật ngôn “Nếu có sự tồn tại của một cá thể mà là thường hằng, ổn định, vĩnh cửu, không chịu sự thay đổi, thì cuộc sống phạm hạnh để hoàn toàn diệt khổ sẽ không thể được ghi nhận” nên được hiểu “nếu có một mảy may pháp hữu vi là hằng hữu, không biến đổi thì cuộc tu sẽ không có giá trị”. Nói cách khác “Đời sống phạm hạnh có ý nghĩa thật sự vì tất cả các hành là vô thường, là khổ não, là vô ngã”.

Đức Phật thuật lại câu chuyện tiền thân để cho thấy hai điều: Thứ nhất, dầu có thật nhiều nhưng hưởng cũng chẳng bao nhiêu. Thứ hai, cho dù được cái tốt nhất thì cũng vô thường biến đổi.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.

Dưới đây là chánh văn Pāli cùng với bản Việt dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu

 

Sāvatthinidānaṃ.

Ekamantaṃ nisinno kho so bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca:

Nhân duyên ở Sāvatthi …

Sau khi ngồi, vị Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

“atthi nu kho, bhante, kiñci rūpaṃ yaṃ rūpaṃ niccaṃ dhuvaṃ sassataṃ avipariṇāmadhammaṃ sassatisamaṃ tatheva ṭhassati? Atthi nu kho, bhante, kāci vedanā yā vedanā niccā dhuvā sassatā avipariṇāmadhammā sassatisamaṃ tatheva ṭhassati? Atthi nu kho, bhante, kāci saññā yā saññā …pe… atthi nu kho, bhante, keci saṅkhārā ye saṅkhārā niccā dhuvā sassatā avipariṇāmadhammā sassatisamaṃ tatheva ṭhassanti? Atthi nu kho, bhante, kiñci viññāṇaṃ, yaṃ viññāṇaṃ niccaṃ dhuvaṃ sassataṃ avipariṇāmadhammaṃ sassatisamaṃ tatheva ṭhassatī”ti?

—Bạch Thế Tôn, có thể có sắc nào, sắc ấy là thường còn, thường hằng, thường trú, không chịu sự biến hoại, vĩnh viễn thường hằng, vĩnh trú như vậy?

Bạch Thế Tôn, có thể có thọ nào… có thể có tưởng nào… có thể có các hành nào… có thể có thức nào, thức ấy là thường còn, thường hằng, thường trú, không chịu sự biến hoại, vĩnh viễn thường hằng, vĩnh trú như vậy?

“Natthi kho, bhikkhu, kiñci rūpaṃ, yaṃ rūpaṃ niccaṃ dhuvaṃ sassataṃ avipariṇāmadhammaṃ sassatisamaṃ tatheva ṭhassati. Natthi kho, bhikkhu, kāci vedanā … kāci saññā … keci saṅkhārā … kiñci viññāṇaṃ, yaṃ viññāṇaṃ niccaṃ dhuvaṃ sassataṃ avipariṇāmadhammaṃ sassatisamaṃ tatheva ṭhassatī”ti.

—Này Tỷ-kheo, không có sắc nào, sắc ấy là thường còn, thường hằng, thường trú, không chịu sự biến hoại, vĩnh viễn thường hằng, vĩnh trú như vậy.

Này Tỷ-kheo, không có thọ nào … không có tưởng nào … không có các hành nào … không có thức nào, thức ấy là thường còn, thường hằng, thường trú, không chịu sự biến hoại, vĩnh viễn thường hằng, vĩnh trú như vậy.

Atha kho bhagavā parittaṃ gomayapiṇḍaṃ pāṇinā gahetvā taṃ bhikkhuṃ etadavoca:

“ettakopi kho, bhikkhu, attabhāvapaṭilābho natthi nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo sassatisamaṃ tatheva ṭhassati. Ettako cepi, bhikkhu, attabhāvapaṭilābho abhavissa nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, nayidaṃ brahmacariyavāso paññāyetha sammā dukkhakkhayāya. Yasmā ca kho, bhikkhu, ettakopi attabhāvapaṭilābho natthi nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, tasmā brahmacariyavāso paññāyati sammā dukkhakkhayāya.

Rồi Thế Tôn lấy tay cầm lên một miếng phân bò và nói với Tỷ-kheo ấy:

—Này Tỷ-kheo, cho đến được một ngã thể nhỏ như thế này cũng không thường còn, thường hằng, thường trú, chịu sự biến hoại, không vĩnh viễn thường hằng, vĩnh trú.

Nếu được một ngã thể nhỏ như thế này, này Tỷ-kheo, là thường còn, thường hằng, thường trú, không chịu sự biến hoại, vĩnh viễn thưòng hàng, vĩnh trú, thời đời sống Phạm hạnh để chơn chánh đoạn tận khổ đau không thể trình bày. Vì này Tỷ-kheo, cho đến được một ngã thể nhỏ bé như thế này cũng không thường còn, thường hằng, thường trú, chịu sự biến hoại, không vĩnh viễn thường hằng, vĩnh trú; do vậy đời sống Phạm hạnh để chơn chánh đoạn tận khổ đau có thể trình bày.

Bhūtapubbāhaṃ, bhikkhu, rājā ahosiṃ khattiyo muddhāvasitto. Tassa mayhaṃ, bhikkhu, rañño sato khattiyassa muddhāvasittassa caturāsītinagarasahassāni ahesuṃ kusāvatīrājadhānippamukhāni. Tassa mayhaṃ, bhikkhu, rañño sato khattiyassa muddhāvasittassa caturāsītipāsādasahassāni ahesuṃ dhammapāsādappamukhāni. Tassa mayhaṃ, bhikkhu, rañño sato khattiyassa muddhāvasittassa caturāsītikūṭāgārasahassāni ahesuṃ mahābyūhakūṭāgārappamukhāni. Tassa mayhaṃ, bhikkhu, rañño sato khattiyassa muddhāvasittassa caturāsītipallaṅkasahassāni ahesuṃ dantamayāni sāramayāni sovaṇṇamayāni goṇakatthatāni paṭikatthatāni paṭalikatthatāni kadalimigapavarapaccattharaṇāni sauttaracchadāni ubhatolohitakūpadhānāni. Tassa mayhaṃ, bhikkhu, rañño sato khattiyassa muddhāvasittassa caturāsītināgasahassāni ahesuṃ sovaṇṇālaṅkārāni sovaṇṇaddhajāni hemajālapaṭicchannāni uposathanāgarājappamukhāni. Tassa mayhaṃ, bhikkhu, rañño sato khattiyassa muddhāvasittassa caturāsītiassasahassāni ahesuṃ sovaṇṇālaṅkārāni sovaṇṇaddhajāni hemajālapaṭicchannāni valāhakaassarājappamukhāni. Tassa mayhaṃ, bhikkhu, rañño sato khattiyassa muddhāvasittassa caturāsītirathasahassāni ahesuṃ sovaṇṇālaṅkārāni sovaṇṇaddhajāni hemajālapaṭicchannāni vejayantarathappamukhāni. Tassa mayhaṃ, bhikkhu, rañño sato khattiyassa muddhāvasittassa caturāsītimaṇisahassāni ahesuṃ maṇiratanappamukhāni. Tassa mayhaṃ, bhikkhu …pe… caturāsītiitthisahassāni ahesuṃ subhaddādevippamukhāni. Tassa mayhaṃ, bhikkhu …pe… caturāsītikhattiyasahassāni ahesuṃ anuyantāni pariṇāyakaratanappamukhāni. Tassa mayhaṃ, bhikkhu …pe… caturāsītidhenusahassāni ahesuṃ dukūlasandānāni kaṃsūpadhāraṇāni. Tassa mayhaṃ, bhikkhu …pe… caturāsītivatthakoṭisahassāni ahesuṃ khomasukhumāni koseyyasukhumāni kambalasukhumāni kappāsikasukhumāni. Tassa mayhaṃ, bhikkhu …pe… caturāsītithālipākasahassāni ahesuṃ; sāyaṃ pātaṃ bhattābhihāro abhihariyittha.

Thuở xưa, này Tỷ-kheo, Ta là vị vua Sát-đế-lị đã làm lễ quán đảnh. Khi Ta là vị vua Sát-đế-lị đã làm lễ quán đảnh, Ta có 84.000 đô thị, và đô thị Kusāvātī là bậc nhất.

Này Tỷ-kheo, khi Ta là vị vua Sát-đế-lị đã làm lễ quán đảnh, Ta có 84.000 cung điện, và cung điện Dhamma là bậc nhất.

Này Tỷ-kheo, khi Ta là vị vua Sát-đế-lị đã làm lễ quán đảnh, Ta có 84.000 trùng các, và trùng các Mahābyūha là bậc nhất.

Này Tỷ-kheo, khi Ta là vị vua Sát-đế-lị đã làm lễ quán đảnh, Ta có 84.000 sàng tọa làm bằng ngà, làm bằng lõi cây, làm bằng vàng, làm bằng bạc, trải bằng nệm len có lông dài, trải bằng chăn len trắng, trải bằng chăn len thêu bông, trải nệm bằng da con sơn dương gọi là kadali, có lầu che phía trên và có gối chân màu đỏ cả hai đầu.

Này Tỷ-kheo, khi Ta là vị vua Sát-đế-lị đã làm lễ quán đảnh, Ta có 84.000 con voi với những trang sức bằng vàng, với những cờ xí bằng vàng, bao bọc với những lưới bằng vàng, và voi chúa Uposatha là bậc nhất.

Này Tỷ-kheo, khi Ta là vị vua Sát-đế-lị đã làm lễ quán đảnh, Ta có 84.000 con ngựa với những trang sức bằng vàng, với những cờ xí bằng vàng, bao bọc với những lưới bằng vàng, và ngựa chúa Valāhaka là bậc nhất.

Này Tỷ-kheo, khi Ta là vị vua Sát-đế-lị đã làm lễ quán đảnh, Ta có 84.000 cỗ xe, với những trang sức bằng vàng, với những cờ xí bằng vàng, bao bọc với những lưới bằng vàng, và cỗ xe Vejayanta là bậc nhất.

Này Tỷ-kheo, khi Ta là vị vua Sát-đế-lị đã làm lễ quán đảnh, Ta có 84.000 châu báu, và Ma-ni châu là bậc nhất.

Này Tỷ-kheo, khi Ta là … Ta có 84.000 phụ nữ, và hoàng hậu Subhaddā là bậc nhất.

Này Tỷ-kheo, khi Ta là … Ta có 84.000 chư hầu Sát-đế-lị, và Binh chủ báu là bậc nhất.

Này Tỷ-kheo, khi Ta là … Ta có 84.000 con bò cái, với những dây thừng bằng vải đay mịn màng, và chậu sữa bằng bạc.

Này Tỷ-kheo, khi Ta là … Ta có 84.000 áo bằng vải gai tinh tế, bằng vải lụa tinh tế, bằng vải len tinh tế, bằng vải bông tinh tế.

Này các Tỷ-kheo, khi Ta là … Ta có 84.000 dĩa bàn, và trên ấy các cơm sáng và cơm chiều được dọn lên.

Tesaṃ kho pana, bhikkhu, caturāsītiyā nagarasahassānaṃ ekaññeva taṃ nagaraṃ hoti yamahaṃ tena samayena ajjhāvasāmi—kusāvatī rājadhānī. Tesaṃ kho pana, bhikkhu, caturāsītiyā pāsādasahassānaṃ ekoyeva so pāsādo hoti yamahaṃ tena samayena ajjhāvasāmi—dhammo pāsādo. Tesaṃ kho pana, bhikkhu, caturāsītiyā kūṭāgārasahassānaṃ ekaññeva taṃ kūṭāgāraṃ hoti yamahaṃ tena samayena ajjhāvasāmi—mahābyūhaṃ kūṭāgāraṃ. Tesaṃ kho pana, bhikkhu, caturāsītiyā pallaṅkasahassānaṃ ekoyeva so pallaṅko hoti yamahaṃ tena samayena paribhuñjāmi—dantamayo vā sāramayo vā sovaṇṇamayo vā rūpiyamayo vā. Tesaṃ kho pana, bhikkhu, caturāsītiyā nāgasahassānaṃ ekoyeva so nāgo hoti yamahaṃ tena samayena abhiruhāmi—uposatho nāgarājā. Tesaṃ kho pana, bhikkhu, caturāsītiyā assasahassānaṃ ekoyeva so asso hoti yamahaṃ tena samayena abhiruhāmi—valāhako assarājā. Tesaṃ kho pana, bhikkhu, caturāsītiyā rathasahassānaṃ ekoyeva so ratho hoti yamahaṃ tena samayena abhiruhāmi—vejayanto ratho. Tesaṃ kho pana, bhikkhu, caturāsītiyā itthisahassānaṃ ekāyeva sā itthī hoti yā maṃ tena samayena paccupaṭṭhāti—khattiyānī vā velāmikā vā. Tesaṃ kho pana, bhikkhu, caturāsītiyā vatthakoṭisahassānaṃ ekaññeva taṃ vatthayugaṃ hoti yamahaṃ tena samayena paridahāmi—khomasukhumaṃ vā koseyyasukhumaṃ vā kambalasukhumaṃ vā kappāsikasukhumaṃ vā. Tesaṃ kho pana, bhikkhu, caturāsītiyā thālipākasahassānaṃ ekoyeva so thālipāko hoti yato nāḷikodanaparamaṃ bhuñjāmi tadupiyañca sūpeyyaṃ.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong 84.000 đô thị ấy, đô thị Ta trú thời ấy là kinh đô Kusāvātī.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong 84.000 cung điện ấy, cung điện Ta trú thời ấy là cung điện Dhamma.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong 84.000 trùng các ấy, trùng các Ta trú là trùng các Mahābyūha.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong 84.000 sàng tọa ấy, sàng tọa Ta thọ dùng thời ấy là sàng tọa bằng ngà, hay bằng lõi cây, hay bằng vàng, hay bằng bạc.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong 84.000 con voi ấy, con voi Ta cưỡi thời ấy là voi chúa Uposatha.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong 84.000 con ngựa ấy, con ngựa Ta cưỡi thời ấy là ngựa chúa Valāhaka.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong 84.000 cỗ xe ấy, cỗ xe Ta cưỡi thời ấy là cỗ xe Vejayanta.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong 84.000 phụ nữ ấy, phụ nữ hầu hạ Ta thời ấy là Khattiyāni hay Velāmikā.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong 84.000 áo mặc ấy, đôi áo Ta mặc thời ấy, hoặc bằng vải gai tinh tế, hay bằng lụa tinh tế, hay bằng len tinh tế, hay bằng vải bông tinh tế.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong 84.000 dĩa bàn ấy, một dĩa bàn Ta dùng để ăn một phần (nālika) cơm, còn dĩa bàn thứ hai, Ta dùng để ăn đồ ăn tương đương.

Iti kho, bhikkhu, sabbe te saṅkhārā atītā niruddhā vipariṇatā. Evaṃ aniccā kho, bhikkhu, saṅkhārā. Evaṃ addhuvā kho, bhikkhu, saṅkhārā. Evaṃ anassāsikā kho, bhikkhu, saṅkhārā. Yāvañcidaṃ, bhikkhu, alameva sabbasaṅkhāresu nibbindituṃ, alaṃ virajjituṃ, alaṃ vimuccitun”ti.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, tất cả các hành ấy là thuộc quá khứ, đoạn diệt, biến hoại.

Như vậy vô thường, này các Tỷ-kheo, là các hành. Như vậy không thường hằng, này các Tỷ-kheo, là các hành. Như vậy không thường trú, này các Tỷ-kheo, là các hành.

Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là vừa đủ để nhàm chán đối với tất cả hành, là vừa đủ để ly tham, là vừa đủ để giải thoát.

 

Sớ giải Kinh Gomayapiṇḍa

96-98. catutthe sassatisamanti sinerumahāpathavīcandimasūriyādīhi sassatīhi samaṃ. parittaṃ gomayapiṇḍanti appamattakaṃ madhukapupphappamāṇaṃ gomayakhaṇḍaṃ. kuto panānenetaṃ laddhanti. paribhaṇḍakaraṇatthāya ābhatato gahitanti eke. atthassa pana viññāpanatthaṃ iddhiyā abhisaṅkharitvā hatthāruḷhaṃ katanti veditabbanti. attabhāvapaṭilābhoti paṭiladdhāttabhāvo. na yidaṃ brahmacariyavāso paññāyethāti ayaṃ maggabrahmacariyavāso nāma na paññāyeyya. maggo hi tebhūmakasaṅkhāre vivaṭṭento uppajjati. yadi ca ettako attabhāvo nicco bhaveyya, maggo uppajjitvāpi saṅkhāravaṭṭaṃ vivaṭṭetuṃ na sakkuṇeyyāti brahmacariyavāso na paññāyetha.

♦ idāni sace koci saṅkhāro nicco bhaveyya, mayā mahāsudassanarājakāle anubhūtā sampatti niccā bhaveyya, sāpi ca aniccāti taṃ dassetuṃ bhūtapubbāhaṃ bhikkhu rājā ahosintiādimāha. tattha kusāvatīrājadhānippamukhānīti kusāvatīrājadhānī tesaṃ nagarānaṃ pamukhā, sabbaseṭṭhāti attho. sāramayānīti rattacandanasāramayāni. upadhānaṃ pana sabbesaṃ suttamayameva. goṇakatthatānīti caturaṅgulādhikalomena kāḷakojavena atthatāni, yaṃ mahāpiṭṭhiyakojavoti vadanti. paṭakatthatānīti ubhatolomena uṇṇāmayena setakambalena atthatāni. paṭalikatthatānīti ghanapupphena uṇṇāmayāttharaṇena atthatāni. kadalimigapavarapaccattharaṇānīti kadalimigacammamayena uttamapaccattharaṇena atthatāni. taṃ kira paccattharaṇaṃ setavatthassa upari kadalimigacammaṃ attharitvā sibbetvā karonti. sauttaracchadānīti saha uttaracchadena, upari baddhena rattavitānena saddhinti attho. ubhatolohitakūpadhānīti sīsūpadhānañca pādūpadhānañcāti pallaṅkānaṃ ubhatolohitakūpadhānāni. vejayantarathappamukhānīti ettha vejayanto nāma tassa rañño ratho, yassa cakkānaṃ indanīlamaṇimayā nābhi, sattaratanamayā arā, pavāḷamayā nemi, rajatamayo akkho, indanīlamaṇimayaṃ upakkharaṃ, rajatamayaṃ kubbaraṃ. so tesaṃ rathānaṃ pamukho aggo. dukūlasandānānīti dukūlasantharāni. kaṃsūpadhāraṇānīti rajatamayadohabhājanāni. vatthakoṭisahassānīti yathārucitaṃ paribhuñjissatīti nhatvā ṭhitakāle upanītavatthāneva sandhāyetaṃ vuttaṃ. bhattābhihāroti abhiharitabbabhattaṃ.

♦ yamahaṃ tena samayena ajjhāvasāmīti yattha vasāmi, taṃ ekaññeva nagaraṃ hoti, avasesesu puttadhītādayo ceva dāsamanussā ca vasiṃsu. pāsādakūṭāgārādīsupi eseva nayo. pallaṅkādīsu ekaṃyeva sayaṃ paribhuñjati, sesā puttādīnaṃ paribhogā honti. itthīsu ekāva paccupaṭṭhāti, sesā parivāramattā honti. velāmikāti khattiyassa vā brāhmaṇiyā, brāhmaṇassa vā khattiyāniyā kucchismiṃ jātā. paridahāmīti ekaṃyeva dussayugaṃ nivāsemi, sesāni parivāretvā vicarantānaṃ asītisahassādhikānaṃ soḷasannaṃ purisasatasahassānaṃ hontīti dasseti. bhuñjāmīti paramappamāṇena nāḷikodanamattaṃ bhuñjāmi, sesaṃ parivāretvā vicarantānaṃ cattālīsasahassādhikānaṃ aṭṭhannaṃ purisasatasahassānaṃ hotīti dasseti. ekathālipāko hi dasannaṃ janānaṃ pahoti.

♦ iti imaṃ mahāsudassanakāle sampattiṃ dassetvā idāni tassā aniccataṃ dassento iti kho bhikkhūtiādimāha. tattha vipariṇatāti pakatijahanena nibbutapadīpo viya apaṇṇattikabhāvaṃ gatā. evaṃ aniccā kho bhikkhu saṅkhārāti evaṃ hutvāabhāvaṭṭhena aniccā. ettāvatā bhagavā yathā nāma puriso satahatthubbedhe campakarukkhe nisseṇiṃ bandhitvā abhiruhitvā campakapupphaṃ ādāya nisseṇiṃ muñcanto otareyya, evamevaṃ nisseṇiṃ bandhanto viya anekavassakoṭisatasahassubbedhaṃ mahāsudassanasampattiṃ āruyha sampattimatthake ṭhitaṃ aniccalakkhaṇaṃ ādāya nisseṇiṃ muñcanto viya otiṇṇo. evaṃ addhuvāti evaṃ udakapubbuḷādayo viya dhuvabhāvarahitā. evaṃ anassāsikāti evaṃ supinake pītapānīyaṃ viya anulittacandanaṃ viya ca assāsavirahitā. iti imasmiṃ sutte aniccalakkhaṇaṃ kathitaṃ. pañcame sabbaṃ vuttanayameva. chaṭṭhaṃ tathā bujjhanakassa ajjhāsayena vuttaṃ. catutthādīni.

96-98. Trong đoạn thứ tư, tương đồng như vậy mãi mãi với núi Sineru, đại địa, mặt trăng, mặt trời, và những thứ thường được cho là vĩnh cửu khác. Parittaṃ gomayapiṇḍaṃ nghĩa là một mẩu phân bò nhỏ, kích thước nhỏ như một đóa hoa nhài. Vậy điều này xuất phát từ đâu? Một số người nói rằng nó được mang về để làm đồ trang sức. Nhưng nên hiểu rằng để giải thích ý nghĩa của nó, Đức Phật đã tạo ra nó bằng thần thông và đặt vào tay mình.

Attabhāvapaṭilābhoti nghĩa là sự nhận lấy thân xác. Nếu không có sự tồn tại nào là vĩnh cửu, ổn định, và không thay đổi, thì sẽ không có cuộc sống phạm hạnh để chấm dứt khổ đau. Đạo lộ của phạm hạnh xuất hiện để chấm dứt sự luân hồi của các hành. Nếu có sự tồn tại nào là vĩnh cửu, ổn định, thì đạo lộ sẽ không thể xuất hiện để chấm dứt sự luân hồi của các hành, và do đó, cuộc sống phạm hạnh sẽ không được nhận ra.

Bây giờ, nếu có bất kỳ hành nào là vĩnh cửu, khi ta là vua Mahāsudassana, sự giàu sang mà ta đã trải qua sẽ là vĩnh cửu. Nhưng nó cũng là vô thường, như được chỉ ra bởi câu chuyện về "Bhūtapubbāhaṃ bhikkhu rājā ahosiṃ" (trước đây, tỳ khưu, ta là vua).

Kusāvatīrājadhānippamukhānīti: thủ đô Kusāvatī là đứng đầu trong các thành phố đó, nghĩa là thành phố tốt nhất. Sāramayānīti: làm từ gỗ đàn hương đỏ. Upadhānaṃ: tất cả đều làm bằng dây bện. Goṇakatthatānīti: làm từ da bò đen dày hơn bốn ngón tay, được gọi là "mahāpiṭṭhiyakojava". Paṭakatthatānīti: làm từ len trắng và len thêu hoa. Paṭalikatthatānīti: làm từ hoa dày và thảm len. Kadalimigapavarapaccattharaṇānīti: làm từ da con nai lớn. Thảm trải giường được làm từ vải trắng với da con nai lớn bên trên. Sauttaracchadānīti: với tấm che trên, có màn đỏ buộc ở trên. Ubhatolohitakūpadhānīti: những cái gối đầu và gối chân của giường. Vejayantarathappamukhānīti: trong số đó, có một cái xe tên là Vejayanta của nhà vua, với các bánh xe làm từ ngọc bích xanh, nan bánh xe làm từ bảy loại báu vật, viền bánh xe làm từ san hô, trục xe làm từ bạc, trục trung tâm làm từ ngọc bích xanh, và thân xe làm từ bạc. Đó là xe đứng đầu và tốt nhất. Dukūlasandānānīti: làm từ lụa mịn. Kaṃsūpadhāraṇānīti: các bình đựng sữa bằng đồng. Vatthakoṭisahassānīti: như mong muốn, có những bộ quần áo được sử dụng khi đã tắm xong. Bhattābhihāroti: thức ăn được mang đến.

Yamahaṃ tena samayena ajjhāvasāmīti: thành phố duy nhất mà ta sống vào thời điểm đó là Kusāvatī, trong khi con cái và người hầu sống ở các thành phố khác. Cũng như vậy với các cung điện và hội trường. Ta chỉ sử dụng một cái giường duy nhất, trong khi những giường khác dành cho con cái. Chỉ có một người phụ nữ phục vụ ta, trong khi những người khác chỉ là người hầu. Velāmikāti: con gái của một người khattiya hoặc brāhmaṇa, sinh ra từ một người brāhmaṇa hoặc khattiya. Paridahāmīti: ta chỉ mặc một bộ quần áo, trong khi những người khác mặc cho ta. Bhuñjāmīti: ta chỉ ăn một lượng cơm nhỏ nhất, trong khi những người khác ăn phần còn lại. Một đĩa cơm có thể phục vụ cho mười người.

Bằng cách chỉ ra sự giàu có này trong thời Mahāsudassana, Đức Phật chỉ ra sự vô thường của nó bằng cách nói "iti kho bhikkhu" (vì vậy, tỳ khưu). Vipariṇatāti: sự thay đổi bản chất, giống như một ngọn đèn đã tắt, trở thành không tồn tại. Evaṃ aniccā kho bhikkhu saṅkhārāti: như vậy, các hành là vô thường bởi vì chúng trở nên không tồn tại. Ettāvatā: bằng cách này, Đức Phật như một người buộc thang vào một cái cây cao trăm tay, leo lên để hái hoa champaka, rồi thả thang xuống và trèo xuống. Cũng như vậy, Đức Phật chỉ ra đặc tính vô thường của sự giàu có to lớn Mahāsudassana, leo lên đỉnh của sự giàu có, lấy đặc tính vô thường và thả xuống để trở lại bình thường. Evaṃ addhuvāti: như vậy, không bền vững, giống như bong bóng nước, không có sự bền vững. Evaṃ anassāsikāti: như vậy, không đáng tin cậy, giống như uống nước trong giấc mơ hoặc bôi kem hoa champaka, không có sự an ủi. Như vậy, trong bài kinh này, đặc tính vô thường đã được thuyết giảng. Trong phần thứ năm, tất cả các đặc tính đã được thuyết giảng. Phần thứ sáu được nói để phù hợp với người có khả năng hiểu biết.