- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Abbot: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Website: chuaphapluan.com
- View Map
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 27.12.2022
CHIẾN THẮNG BẰNG AN NHẪN
Kinh Xấu Xí (Dubbaṇṇiyasuttaṃ)
CHƯƠNG XI. TƯƠNG ƯNG SAKKA - PHẨM THỨ BA (S. i, 237)
Lấy hung hãn đấu hung hãn là thường tình. Lấy an nhẫn thắng hung bạo là đặc hạnh của bậc trí. Ăn miếng trả miếng nuôi dưỡng hận thù. Không may đó là nguyên nhân lôi cuốn con người vào hận thù oan kết. Không phải dễ dàng để hoá giải tương tranh bằng sự khiêm cung nhẫn nại. Một bài học quan trọng khác: gặp chuyện bất bình mà tự đề cao bản thân chỉ thêm dầu vào lửa.
Sāvatthiyaṃ jetavane. Tatra kho...pe... etadavoca – ‘‘bhūtapubbaṃ, bhikkhave, aññataro yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinno ahosi. Tatra sudaṃ, bhikkhave, devā tāvatiṃsā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti – ‘acchariyaṃ vata bho, abbhutaṃ vata, bho! Ayaṃ yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinno’’’ti! Yathā yathā kho, bhikkhave, devā tāvatiṃsā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti, tathā tathā so yakkho abhirūpataro ceva hoti dassanīyataro ca pāsādikataro ca.
Tại Jetavana (Kỳ Viên), Sāvatthi (Xá Vệ).
Ở đấy Đức Thế Tôn nói:
-- Này các Tỷ khưu, thuở trước có một dạ xoa thân tướng xấu xí ngồi trên chỗ ngồi của Thiên chủ Sakka. Thấy vậy chư thiên cõi Tam Thập Tam bất bình, lớn tiếng, than phiền: Thật là chuyện khó tin! thật là chuyện hiếm thấy! Một dạ xoa xấu xí ngồi trên chỗ ngồi của Thiên chủ Đế Thích. Nhưng điều xẩy ra là chư thiên càng bất bình, lớn tiếng, than phiền thì da xoa ấy càng đẹp hơn, khả ái hơn, uy nghiêm hơn.
‘‘Atha kho, bhikkhave, devā tāvatiṃsā yena sakko devānamindo tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā sakkaṃ devānamindaṃ etadavocuṃ – ‘idha te, mārisa, aññataro yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinno. Tatra sudaṃ, mārisa, devā tāvatiṃsā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti – acchariyaṃ vata, bho, abbhutaṃ vata, bho! Ayaṃ yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinnoti. Yathā yathā kho, mārisa, devā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti, tathā tathā so yakkho abhirūpataro ceva hoti dassanīyataro ca pāsādikataro cāti. So hi nūna, mārisa, kodhabhakkho yakkho bhavissatī’’’ti.
-- Này các Tỷ khưu, rồi chư thiên Tam Thập Tam Thiên đi gặp Thiên chủ Đế Thích nói rằng:
Thưa Thiên Chủ, hiện có một dạ xoa thân tướng xấu xí ngồi trên chỗ ngồi của Thiên chủ Sakka. Thấy vậy chư thiên cõi Tam Thập Tam bất bình, lớn tiếng, than phiền: Thật là chuyện khó tin! thật là chuyện hiếm thấy! Một dạ xoa xấu xí ngồi trên chỗ ngồi của Thiên chủ Đế Thích. Nhưng điều xẩy ra là chư thiên càng bất bình, lớn tiếng, than phiền thì dạ xoa ấy càng đẹp hơn, khả ái hơn, uy nghiêm hơn. Phải chăng dạ xoa ấy được nuôi dưỡng bằng phẫn nộ?
‘‘Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo yena so kodhabhakkho yakkho tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā dakkhiṇajāṇumaṇḍalaṃ pathaviyaṃ nihantvā yena so kodhabhakkho yakkho tenañjaliṃ paṇāmetvā tikkhattuṃ nāmaṃ sāveti – ‘sakkohaṃ mārisa, devānamindo, sakkohaṃ, mārisa, devānamindo’ti. Yathā yathā kho, bhikkhave, sakko devānamindo nāmaṃ sāvesi, tathā tathā so yakkho dubbaṇṇataro ceva ahosi okoṭimakataro ca. Dubbaṇṇataro ceva hutvā okoṭimakataro ca tatthevantaradhāyī’’ti. Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo sake āsane nisīditvā deve tāvatiṃse anunayamāno tāyaṃ velāyaṃ imā gāthāyo abhāsi –
Này các Tỳ khưu, Thiên chủ Sakka đi đến Dạ xoa nuôi dưỡng bằng phẫn nộ ấy; sau khi đến đắp thượng y vào một bên vai, đầu gối chân phải quỳ trên đất, chấp tay vái chào dạ xoa và tự giới thiệu ba lần: "Thưa Tôn giả, tôi là Thiên chủ Sakka! Thưa Tôn giả, tôi là Thiên chủ Sakka!". Mỗi lời xưng tên của Thiên chủ Đế Thích càng khiến dạ xoa kia xấu đi và cuối cùng biến mất.
Này chư Tỳ khưu, rồi Thiên chủ Đế Thích ngồi trên chỗ ngồi của mình, sau khi giáo hoá chư thiên đã nói lên kệ ngôn:
‘‘Na sūpahatacittomhi, nāvattena suvānayo;
Na vo cirāhaṃ kujjhāmi, kodho mayi nāvatiṭṭhati.
‘‘Kuddhāhaṃ na pharusaṃ brūmi, na ca dhammāni kittaye;
Sanniggaṇhāmi attānaṃ, sampassaṃ atthamattano’’ti.
“Ta không bị chọc tức
Cuốn xoáy vào phẫn nộ
Không bao giờ giận dai
Hay nuôi thù kết oán.
“Khi giận không nói ác
Cũng không đề cao mình
Giữ mình bằng tự chế
Vì lợi ích bản thân.
‘‘Na sūpahatacittomhi = tâm ta không dễ bị chi phối
nāvattena suvānayo = hay bị lôi cuốn vào vòng xoáy phẫn nộ
Na vo cirāhaṃ kujjhāmi = không đề bực tức kéo dài
kodho mayi nāvatiṭṭhati = hay phẫn nộ in sâu vào tâm khảm
‘‘Kuddhāhaṃ na pharusaṃ brūmi = khi giận ta không nói lời hung dữ
na ca dhammāni kittaye = không tự khen đức hạnh của chính mình
Sanniggaṇhāmi attānaṃ = ta luôn giữ mình bằng sự tự chế
sampassaṃ atthamattano’’ti = vì sự tốt đẹp cho bản thân
Một lần nữa chữ yakkha - dạ xoa - ở đây chỉ cho loài hoá sanh có nhiều uy lực chứ không nên hiểu theo nghĩa hung thần, quỹ dữ theo thông thường.
Theo Sớ giải thì dạ xoa trong bài kinh nầy là một phạm thiên ở cõi sắc giới nghe tiếp Thiên chủ Sakka là người có đức hạnh nhẫn nại cao độ nên đến thử lòng. Vị phạm thiên biến thành dạ xoa lùn thấp, bụng phệ, màu da xấu xí.
Sớ giải kinh Pháp cú ghi rằng chỗ ngồi của Thiên chủ Đế Thích là ngai hoàng thạch (paṇḍukambalasila) (Dhp-a I273,9-12).
Theo Sớ Giải thì Thiên chủ Đế Thích từng được nghe là: Với đối thủ không thể dùng biện pháp mạnh thì nên kiên định trong sự nhẫn nhục. Và thiên chủ đã áp dụng chiến thuật nầy một cách hiệu quả.
Cụm từ sūpahatacittomhi theo Sớ giải gồm su + upahatacitto + ’mhi mang ý nghĩa là không dễ bị chi phối, hay bị tổn giảm (nipātamattaṃ)
Mệnh đề nāvattena suvānayo (n’āvaṭṭe na suvānayo) theo Sớ giải hàm ý: ta không dễ bị lôi cuốn vào vòng xoáy của phẫn nộ hay bị sự bất bình sai sử (Nāvattena suvānayoti na kodhāvattena suānayo, kodhavase vattetuṃ na sukaromhīti vadati). Đây cũng là một trong bảy điều phát nguyện hành trì khi Đế Thích còn thân nhân loại.
Tỳ khưu Giác Đẳng soạn dịch
2. Dubbaṇṇiyasuttaṃ [Mūla]
268. Sāvatthiyaṃ jetavane. Tatra kho...pe... etadavoca – ‘‘bhūtapubbaṃ, bhikkhave, aññataro yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinno ahosi. Tatra sudaṃ, bhikkhave, devā tāvatiṃsā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti – ‘acchariyaṃ vata bho, abbhutaṃ vata, bho! Ayaṃ yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinno’’’ti! Yathā yathā kho, bhikkhave, devā tāvatiṃsā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti, tathā tathā so yakkho abhirūpataro ceva hoti dassanīyataro ca pāsādikataro ca.
‘‘Atha kho, bhikkhave, devā tāvatiṃsā yena sakko devānamindo tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā sakkaṃ devānamindaṃ etadavocuṃ – ‘idha te, mārisa, aññataro yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinno. Tatra sudaṃ, mārisa, devā tāvatiṃsā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti – acchariyaṃ vata, bho, abbhutaṃ vata, bho! Ayaṃ yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinnoti. Yathā yathā kho, mārisa, devā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti, tathā tathā so yakkho abhirūpataro ceva hoti dassanīyataro ca pāsādikataro cāti. So hi nūna, mārisa, kodhabhakkho yakkho bhavissatī’’’ti.
‘‘Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo yena so kodhabhakkho yakkho tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā dakkhiṇajāṇumaṇḍalaṃ pathaviyaṃ nihantvā yena so kodhabhakkho yakkho tenañjaliṃ paṇāmetvā tikkhattuṃ nāmaṃ sāveti – ‘sakkohaṃ mārisa, devānamindo, sakkohaṃ, mārisa, devānamindo’ti. Yathā yathā kho, bhikkhave, sakko devānamindo nāmaṃ sāvesi, tathā tathā so yakkho dubbaṇṇataro ceva ahosi okoṭimakataro ca. Dubbaṇṇataro ceva hutvā okoṭimakataro ca tatthevantaradhāyī’’ti. Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo sake āsane nisīditvā deve tāvatiṃse anunayamāno tāyaṃ velāyaṃ imā gāthāyo abhāsi –
‘‘Na sūpahatacittomhi, nāvattena suvānayo;
Na vo cirāhaṃ kujjhāmi, kodho mayi nāvatiṭṭhati.
‘‘Kuddhāhaṃ na pharusaṃ brūmi, na ca dhammāni kittaye;
Sanniggaṇhāmi attānaṃ, sampassaṃ atthamattano’’ti.
2. Dubbaṇṇiyasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]
268. Dutiye dubbaṇṇoti jhāmakhāṇuvaṇṇo. Okoṭimakoti lakuṇḍako mahodaro. Āsaneti paṇḍukambalasilāyaṃ. Kodhabhakkhoti sakkena gahitanāmamevetaṃ. So pana eko rūpāvacarabrahmā, ‘‘sakko kira khantibalena samannāgato’’ti sutvā vīmaṃsanatthaṃ āgato. Avaruddhakayakkhā pana evarūpaṃ saṃvihitārakkhaṃ ṭhānaṃ pavisituṃ na sakkonti. Upasaṅkamīti devānaṃ sutvā ‘‘na sakkā esa pharusena cāletuṃ, nīcavuttinā pana khantiyaṃ ṭhitena sakkā palāpetu’’nti tathā palāpetukāmo upasaṅkami. Antaradhāyīti khantiyaṃ ṭhatvā balavacittīkāraṃ paccupaṭṭhapetvā nīcavuttiyā dassiyamānāya sakkāsane ṭhātuṃ asakkonto antaradhāyi. Na sūpahatacittomhīti ettha sūti nipātamattaṃ, upahatacittomhīti āha. Nāvattena suvānayoti na kodhāvattena suānayo, kodhavase vattetuṃ na sukaromhīti vadati. Na vo cirāhanti voti nipātamattaṃ, ahaṃ ciraṃ na kujjhāmīti vadati. Dutiyaṃ.