- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Abbot: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Website: chuaphapluan.com
- View Map
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bāi học ngāy 5.11.2024
CHÁNH MẠNG CỦA SA MÔN
Kinh Sucimukhī (Sucimukhīsuttaṃ)
Tập III – Uẩn
Chương VI. Tương Ưng Sāriputta – Phẩm Sāriputta (S,iii,321)
Nuôi mạng chân chánh, hay chánh mạng, là một trọng điểm trong cuộc tu dù là đời sống hằng ngày hay trong đỉnh cao của giác ngộ giải thoát. Đức Phật dạy rõ người xuất gia không sống bằng sinh kế như người cư sĩ. Chánh mạng của sa môn hạnh là nhận sự cúng dường của đàn tín chứ không qua cách trao đổi dịch vụ, hàng hoá. Đây là ý nghĩa cốt lõi của chữ “khất sĩ” và cũng là một trong bốn thanh tịnh giới của bậc sa môn đệ tử Phật.
Kinh văn
341. ekaṃ samayaṃ āyasmā sāriputto rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. atha kho āyasmā sāriputto pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya rājagahe piṇḍāya pāvisi. rājagahe sapadānaṃ piṇḍāya caritvā taṃ piṇḍapātaṃ aññataraṃ kuṭṭamūlaṃ {kuḍḍamūlaṃ (sī. syā. kaṃ.), kuḍḍaṃ (pī.)} nissāya paribhuñjati. atha kho sūcimukhī paribbājikā yenāyasmā sāriputto tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ sāriputtaṃ etadavoca —
“kiṃ nu kho, samaṇa, adhomukho bhuñjasī”ti? “na khvāhaṃ, bhagini, adhomukho bhuñjāmī”ti. “tena hi, samaṇa, ubbhamukho {uddhaṃmukho (sī. aṭṭha.)} bhuñjasī”ti? “na khvāhaṃ, bhagini, ubbhamukho bhuñjāmī”ti. “tena hi, samaṇa, disāmukho bhuñjasī”ti? “na khvāhaṃ, bhagini, disāmukho bhuñjāmī”ti. “tena hi, samaṇa, vidisāmukho bhuñjasī”ti? “na khvāhaṃ, bhagini, vidisāmukho bhuñjāmī”ti.
“‘kiṃ nu, samaṇa, adhomukho bhuñjasī’ti iti puṭṭho samāno ‘na khvāhaṃ, bhagini, adhomukho bhuñjāmī’ti vadesi. ‘tena hi, samaṇa, ubbhamukho bhuñjasī’ti iti puṭṭho samāno ‘na khvāhaṃ, bhagini, ubbhamukho bhuñjāmī’ti vadesi. ‘tena hi, samaṇa, disāmukho bhuñjasī’ti iti puṭṭho samāno ‘na khvāhaṃ, bhagini, disāmukho bhuñjāmī’ti vadesi. ‘tena hi, samaṇa, vidisāmukho bhuñjasī’ti iti puṭṭho samāno ‘na khvāhaṃ, bhagini, vidisāmukho bhuñjāmī’ti vadesi”.
“kathañcarahi, samaṇa, bhuñjasī”ti? “ye hi keci, bhagini, samaṇabrāhmaṇā {samaṇā vā brāhmaṇā vā (sī.) nigamanavākye pana sabbatthāpi samāsoyeva dissati} vatthuvijjātiracchānavijjāya micchājīvena jīvikaṃ {jīvitaṃ (ka.)} kappenti, ime vuccanti, bhagini, samaṇabrāhmaṇā ‘adhomukhā bhuñjantī’ti. ye hi keci, bhagini, samaṇabrāhmaṇā nakkhattavijjātiracchānavijjāya micchājīvena jīvikaṃ kappenti, ime vuccanti, bhagini, samaṇabrāhmaṇā ‘ubbhamukhā bhuñjantī’ti. ye hi keci, bhagini, samaṇabrāhmaṇā dūteyyapahiṇagamanānuyogāya {... nuyogā (sī. syā. kaṃ. pī.), ... nuyogena (?)} micchājīvena jīvikaṃ kappenti, ime vuccanti, bhagini, samaṇabrāhmaṇā ‘disāmukhā bhuñjantī’ti. ye hi keci, bhagini, samaṇabrāhmaṇā aṅgavijjātiracchānavijjāya micchājīvena jīvikaṃ kappenti, ime vuccanti, bhagini, samaṇabrāhmaṇā ‘vidisāmukhā bhuñjantī’”ti.
“so khvāhaṃ, bhagini, na vatthuvijjātiracchānavijjāya micchājīvena jīvikaṃ kappemi, na nakkhattavijjātiracchānavijjāya micchājīvena jīvikaṃ kappemi, na dūteyyapahiṇagamanānuyogāya micchājīvena jīvikaṃ kappemi, na aṅgavijjātiracchānavijjāya micchājīvena jīvikaṃ kappemi. dhammena bhikkhaṃ pariyesāmi; dhammena bhikkhaṃ pariyesitvā bhuñjāmī”ti.
atha kho sūcimukhī paribbājikā rājagahe rathiyāya rathiyaṃ, siṅghāṭakena siṅghāṭakaṃ upasaṅkamitvā evamārocesi — “dhammikaṃ samaṇā sakyaputtiyā āhāraṃ āhārenti; anavajjaṃ {anavajjena (ka.)} samaṇā sakyaputtiyā āhāraṃ āhārenti. detha samaṇānaṃ sakyaputtiyānaṃ piṇḍan”ti. dasamaṃ.
Một thuở, Tôn giả Sāriputta trú ở Rājagaha, tại Trúc Lâm, trong khu Kalandakanivāpa (chỗ cho sóc ăn). Rồi vào buổi sáng, Tôn giả Sāriputta mặc y, cầm y (kép) và mang bát vào thành Rājagaha để khất thực. Sau khi đã đi khất thực theo các tuần tự ở Rājagaha, Ngài ngồi dựa vào một bức tường thọ trai.
Khi ấy, nữ du sĩ Sucimukhī đến gần Tôn giả Sāriputta và hỏi: “Này Sa môn, Ngài có ăn quay mặt xuống dưới không?”
Ngài trả lời: “Không, thưa cô, tôi không ăn quay mặt xuống dưới.”
Nữ du sĩ lại hỏi: “Vậy, này Sa môn, Ngài có ăn quay mặt lên trên không?”
Ngài trả lời: “Không, này Hiền tỷ, tôi không ăn quay mặt lên trên.”
Nữ du sĩ tiếp tục hỏi: “Vậy, này Sa môn, Ngài có ăn quay mặt về các phương không?”
Ngài đáp: “Không, này Hiền tỷ, tôi không ăn quay mặt về các phương.”
Nữ du sĩ lại hỏi: “Vậy, này Sa môn, Ngài có ăn quay mặt về các hướng phụ không?”
Ngài đáp: “Không, này Hiền tỷ, tôi không ăn quay mặt về các hướng phụ.”
Nữ du sĩ hỏi tiếp: “Khi tôi hỏi Ngài, ‘Ngài có ăn quay mặt xuống dưới không?... Ngài có ăn quay mặt về các hướng phụ không?’ Ngài đều trả lời, ‘Tôi không ăn như vậy, thưa cô.’ Vậy thì Ngài ăn thế nào, thưa Sa môn?”
Tôn giả Sāriputta trả lời: “Thưa cô, những sa môn và bà la môn kiếm sống bằng nghệ thuật thấp kém như thuật địa lý - một nghề tà mạng - thì được gọi là những Sa môn và Bà-la-môn ăn quay mặt xuống dưới. Những sa môn và bà la môn kiếm sống bằng nghệ thuật chiêm tinh học - một nghề tà mạng - thì được gọi là những sa môn và bà la môn ăn quay mặt lên trên. Những sa môn và bà la môn kiếm sống bằng việc đi làm sứ giả và đưa tin - một nghề tà mạng - thì được gọi là những sa môn và bà la môn ăn quay mặt về các phương. Những sa môn và bà la môn kiếm sống bằng nghệ thuật xem tướng - một nghề tà mạng - thì được gọi là những sa môn và bà la môn ăn quay mặt về các hướng phụ.
“Này Hiền tỷ, tôi không kiếm sống bằng những nghề tà mạng, như nghệ thuật thấp kém về địa lý, nghệ thuật thấp kém về chiêm tinh, việc đi làm sứ giả và đưa tin, hay nghệ thuật thấp kém về xem tướng tay. Tôi tìm kiếm thức ăn bằng con đường chính đáng; và sau khi tìm kiếm chính đáng, tôi ăn thức ăn đó một cách đúng đắn.”
Sau đó, nữ du sĩ Sucimukhī đi từ đường này sang đường khác và từ quảng trường này sang quảng trường khác ở Rājagaha và công bố: “Các sa môn Thích tử ăn thức ăn chính đáng; họ thọ dụng thức ăn không có gì để chê trách. Hãy cúng dường thức ăn khất thực cho các sa môn Thích tử.”
Chú Thích
Sucimukhī có nghĩa là “nét mặt thanh tú”. Các bản Hán ngữ dịch là Tịnh Diện hay Thanh Diện.
Cụm từ “sapadānaṃ piṇḍāya carita - tuần tự khất thực” cũng được dịch là thứ lớp khất thực là cách đi khất thực đứng lại từng nhà trên đường mà không bỏ qua nhà nào.
Những việc như xem địa lý, chiêm tinh, bói toán… vốn rất thịnh hành trong giới tu sĩ tại Ấn Độ. Ngay cả trong giới tu sĩ Phật giáo ngày nay. Trên phương diện giới luật Phật ban hành thì những việc làm này đều là tà mạng, tức sự nuôi mạng không hợp đạo của người xuất gia.
Theo Sớ Giải chính do sự tán thán của Sucimukhī mà có hằng trăm người quy y Tam Bảo sau này.
Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.
Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu.
X. Sùcimukhi (Tịnh Diện) (S.iii,238)
1) Một thời Tôn giả Sàriputta trú ở Ràjagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
2) Rồi Tôn giả Sàriputta, vào buổi sáng. đắp y, cầm y bát, đi vào Ràjagaha để khất thực. Sau khi đi khất thực từng nhà một ở Ràjagaha (Vương Xá), Tôn giả ngồi dựa vào một bức tường, dùng đồ ăn khất thực.
3) Rồi một nữ du sĩ ngoại đạo Sùcimukhi đi đến Tôn giả Sàriputta; sau khi đến, nói với Tôn giả Sàriputta:
4) -- Này Sa-môn, có phải Ông ăn, cúi mặt xuống?
-- Này Chị, tôi ăn, không cúi mặt xuống.
5) -- Vậy Sa-môn, Ông ăn, ngưỡng mặt lên?
-- Này Chị, tôi ăn, không ngưỡng mặt lên.
6) -- Vậy Sa-môn, Ông ăn, hướng mặt về bốn phương chính?
-- Này Chị, tôi ăn, không có hướng mặt về bốn phương chính.
7) -- Vậy Sa-môn, Ông ăn, hướng mặt về bốn phương phụ?
-- Này Chị, tôi ăn, không có hướng mặt về bốn phương phụ.
8) -- Ðược hỏi: "Này Sa-môn, có phải Ông ăn, cúi mặt xuống?" Ông trả lời: "Này Chị, tôi ăn, không cúi mặt xuống". Ðược hỏi: "Vậy này Sa-môn, Ông ăn, ngưỡng mặt lên?" Ông đáp: "Này Chị, tôi ăn, không ngưỡng mặt lên". Ðược hỏi: "Vậy này Sa-môn, Ông ăn, hướng mặt về bốn phương chính?" Ông đáp: "Này Chị, tôi ăn, không hướng mặt về bốn phương chính". Ðược hỏi: "Vậy Sa-môn, Ông ăn, hướng mặt về bốn phương phụ?" Ông đáp: "Này Chị, tôi ăn, không hướng mặt về bốn phương phụ". Vậy này Sa-môn, Ông ăn, hành động như thế nào?
9) -- Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này Chị, nuôi sống bằng những tà mạng như địa lý (nakkhattavijjà) và súc sanh minh (nghề hèn hạ); này Chị, các vị ấy được gọi là các Sa-môn, Bà-la-môn ăn cúi mặt xuống.
10) Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này Chị, nuôi sống bằng những tà mạng như thiên văn (nakkhattavijjà) và súc sanh minh (nghề hèn hạ); này Chị, các vị ấy được gọi là các Sa-môn, Bà-la-môn ăn ngưỡng mặt lên.
11) Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này Chị, nuôi sống bằng những tà mạng như đưa tin tức, làm trung gian môi giới; này Chị, các vị ấy được gọi các Sa-môn, Bà-la-môn ăn hướng mặt về bốn phương chính.
12) Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này Chị, nuôi sống bằng những tà mạng như bói toán, và các nghề hèn hạ; này Chị, các vị ấy được gọi những Sa-môn, Bà-la-môn ăn hướng mặt về bốn phương phụ.
13) Còn ta, này Chị, ta không nuôi sống bằng những tà mạng như địa lý và các nghề hèn hạ; ta không nuôi sống bằng những tà mạng như thiên văn và các nghề hèn hạ; ta không nuôi sống bằng những tà mạng như đưa tin tức, làm trung gian môi giới; ta cũng không nuôi sống bằng những tà mạng như bói toán và các nghề hèn hạ. Ta tìm món ăn một cách hợp pháp. Sau khi tìm món ăn một cách hợp pháp, ta dùng các món ăn ấy.
14) Rồi nữ tu sĩ ngoại đạo Sùcimukhi đi từ đường này qua đường khác, từ ngã tư này qua ngã tư khác ở thành Vương Xá, và tuyên bố: "Sa-môn Thích tử dùng các món ăn một cách hợp pháp. Sa-môn Thích tử dùng các món ăn một cách không có lỗi lầm. Hãy cúng dường các món ăn cho Sa-môn Thích tử".
Sớ Giải Các Bài Kinh Từ Kinh SN. 26.1 tới SN. 26.11
341. dasame sucimukhīti evaṃnāmikā. upasaṅkamīti theraṃ abhirūpaṃ dassanīyaṃ suvaṇṇavaṇṇaṃ samantapāsādikaṃ disvā “iminā saddhiṃ parihāsaṃ karissāmī”ti upasaṅkami. atha therena tasmiṃ vacane paṭikkhitte “idānissa vādaṃ āropessāmī”ti maññamānā tena hi, samaṇa, ubbhamukho bhuñjasīti āha. disāmukhoti catuddisāmukho, catasso disā olokentoti attho. vidisāmukhoti catasso vidisā olokento.
vatthuvijjātiracchānavijjāyāti vatthuvijjāsaṅkhātāya tiracchānavijjāya. vatthuvijjā nāma lābuvatthu-kumbhaṇḍavatthu-mūlakavatthu-ādīnaṃ vatthūnaṃ phalasampattikāraṇakālajānanupāyo. micchājīvena jīvikaṃ kappentīti teneva vatthuvijjātiracchānavijjāsaṅkhātena micchājīvena jīvikaṃ kappenti, tesaṃ vatthūnaṃ sampādanena pasannehi manussehi dinne paccaye paribhuñjantā jīvantīti attho. adhomukhāti vatthuṃ oloketvā bhuñjamānavasena adhomukhā bhuñjanti nāma. evaṃ sabbattha yojanā kātabbā. api cettha nakkhattavijjāti “ajja imaṃ nakkhattaṃ iminā nakkhattena gantabbaṃ, iminā idañcidañca kātabban”ti evaṃ jānanavijjā. dūteyyanti dūtakammaṃ, tesaṃ tesaṃ sāsanaṃ gahetvā tattha tattha gamanaṃ. pahiṇagamananti ekagāmasmiṃyeva ekakulassa sāsanena aññakulaṃ upasaṅkamanaṃ. aṅgavijjāti itthilakkhaṇapurisalakkhaṇavasena aṅgasampattiṃ ñatvā “tāya aṅgasampattiyā idaṃ nāma labbhatī”ti evaṃ jānanavijjā. vidisāmukhāti aṅgavijjā hi taṃ taṃ sarīrakoṭṭhāsaṃ ārabbha pavattattā vidisāya pavattā nāma, tasmā tāya vijjāya jīvikaṃ kappetvā bhuñjantā vidisāmukhā bhuñjanti nāma. evamārocesīti “dhammikaṃ samaṇā”tiādīni vadamānā sāsanassa niyyānikaṃ guṇaṃ kathesi. tañca paribbājikāya kathaṃ sutvā pañcamattāni kulasatāni sāsane otariṃsūti.
Trong phần thứ mười, Sucimukhī là tên của nữ du sĩ. Cô đến gần Tôn giả với ý định trêu chọc Ngài sau khi thấy Ngài là một vị tu sĩ có diện mạo tốt, dễ nhìn, với làn da trắng và phong thái dễ mến. Cô nghĩ: “Ta sẽ đùa cợt với người này.” Sau khi Tôn giả từ chối câu hỏi của cô, cô nghĩ: “Bây giờ ta sẽ đưa ra thêm lý lẽ để làm khó vị này.” Cô nói: “Vậy thì, này tu sĩ, Ngài ăn quay mặt lên trên à?”
“Disāmukho” nghĩa là quay mặt về bốn phương, tức là nhìn vào bốn hướng. “Vidisāmukho” có nghĩa là quay mặt về các hướng phụ, tức là nhìn vào các hướng nhỏ hơn.
“Vatthuvijjātiracchānavijjāya” là kiến thức thuộc về vatthuvijjā, một loại kiến thức sai lạc trong số các tà kiến. Vatthuvijjā là phương pháp biết thời điểm để đạt được lợi lộc từ các vật thể như đồ gốm, đậu nành, gốc rễ cây và các vật thể khác. “Micchājīvena jīvikaṃ kappenti” có nghĩa là họ sống bằng nghề tà mạng qua việc sử dụng những kiến thức sai lầm này. Nhờ vào các vật thể đã được “cúng dường” bởi những người tin tưởng vào khả năng của họ, họ dùng làm nguồn sống.
“Adhomukhā” nghĩa là “ăn khi nhìn xuống” tức là nhìn vào vật thể mà họ tin có tác dụng khi ăn. Từ này có thể áp dụng cho tất cả những trường hợp khác.
“Api cettha nakkhattavijjā” là việc xác định các ngôi sao, như “Hôm nay nên đi theo ngôi sao này và thực hiện công việc này theo ngôi sao này” — một loại kiến thức bói toán. “Dūteyya” là công việc của một sứ giả, tức là mang tin tức từ nơi này sang nơi khác. “Pahiṇagamanā” là di chuyển từ nhà này đến nhà khác trong cùng một làng với sứ mệnh truyền tin.
“Aṅgavijjā” là kiến thức về tướng số, bao gồm nhận diện các đặc điểm của phụ nữ và đàn ông để đoán những gì có thể xảy ra từ các đặc điểm cơ thể. “Vidisāmukhā” là người sống nhờ vào aṅgavijjā. Do nghề này tập trung vào các phần cơ thể nhất định, họ được xem là “ăn quay mặt về các hướng phụ.”
Cuối cùng, nữ du sĩ đã công bố rằng “các tu sĩ của dòng họ Thích ăn uống chính đáng”, để ca ngợi đức hạnh của họ theo giáo lý của Đức Phật. Khi nghe điều này, có khoảng năm trăm gia đình đã quy y theo Phật giáo.