Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ _ CHÂN NHƯ _ Kinh Jarāmaraṇa (Jarāmaraṇasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ _ CHÂN NHƯ _ Kinh Jarāmaraṇa (Jarāmaraṇasuttaṃ)

Wednesday, 01/12/2021, 12:11 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 1.12.2021


CHÂN NHƯ

Kinh Jarāmaraṇa (Jarāmaraṇasuttaṃ)

(CHƯƠNG III. TƯƠNG ƯNG KOSALA, PHẨM THỨ NHẤT) (S.i, 70)

Định lý vô thường “hữu sanh hữu diệt” chi phối vạn hữu. Khát vọng muôn thuở của chúng sanh là đi tìm cái vĩnh hằng. Một vị vua làm chủ một vương quốc hùng cường bậc nhất thời đó đã đến bạch hỏi Phật về cái gì “có sanh mà không có diệt”. Đức Phật dạy rõ “Natthi kho, jātassa aññatra jarāmaraṇā. – không có cái gì sanh mà không già và không chết”. Kệ ngôn cuối của Phật ngôn chứa đựng lời dạy không đơn giản để lãnh hội: “Satañca dhammo na jaraṃ upeti, Santo have sabbhi pavedayantī’’ti. – Có pháp không bị già. Pháp bậc Chí Thiện dạy”.

Sớ giải nêu lên ba pháp bất diệt (pháp không bị già):

A. Chân như Niết bàn. Là thực tánh vô vi, vượt ngoài định luật nghiệp và duyên.

B. Chín siêu thế Pháp là bốn đạo, bốn quả, và niết bàn (chú giải Kinh Pháp Cú câu 123).

C. Chánh pháp do bậc trí tuyên thuyết vượt ngoài thời gian. Nghĩa là dù trong quá khứ, hiện tại, vị lai thì thật tánh pháp vẫn vậy không thay đổi.

Rõ ràng Đức Phật không chỉ nói lên hình ảnh bất toàn mà còn chỉ con đường giải thoát “Nếu có cái bị sanh già đau chết chi phối thì phải có cái không bị sanh già đau chết chi phối” (Kinh Thánh Cầu, Trung Bộ”). Dù “pháp không già” nói ở phạm trù nào thì đều là công án lớn cho tất cả người tu Phật.


CHÂN NHƯ _ Kinh Jarāmaraṇa (Jarāmaraṇasuttaṃ)
Bản dịch của HT Thích Minh Châu Bản hiệu đính

Sāvatthinidānaṃ.

Ở tại Sāvatthī.

Ekamantaṃ nisinno kho rājā pasenadi kosalo bhagavantaṃ etadavoca –

Ngồi một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:

‘‘atthi nu kho, bhante, jātassa aññatra jarāmaraṇā’’ti?

-- Bạch Thế Tôn, có cái gì sanh mà không già và không chết không?

‘‘Natthi kho, mahārāja, jātassa aññatra jarāmaraṇā.

-- Thưa Ðại vương, không có cái gì sanh mà không già và không chết.

Yepi te, mahārāja, khattiyamahāsālā aḍḍhā mahaddhanā mahābhogā pahūtajātarūparajatā pahūtavittūpakaraṇā pahūtadhanadhaññā, tesampi jātānaṃ natthi aññatra jarāmaraṇā.

Thưa Ðại vương, dầu cho những vị Sát-đế-lỵ là những bậc đại phú, phú hào, có tiền của lớn, có tài sản lớn, có nhiều vàng và bạc, có nhiều tài sản vật dụng, có nhiều tiền của, ngũ cốc. Các vị ấy có sanh cũng không thoát khỏi già và chết.

Yepi te, mahārāja, brāhmaṇamahāsālā...pe... gahapatimahāsālā aḍḍhā mahaddhanā mahābhogā pahūtajātarūparajatā pahūtavittūpakaraṇā pahūtadhanadhaññā, tesampi jātānaṃ natthi aññatra jarāmaraṇā.

Thưa Ðại vương, dầu cho những vị Bà-la-môn là những bậc đại phú, dầu cho những gia chủ là những bậc đại phú, phú hào, có tiền của lớn, có tài sản lớn, có nhiều vàng bạc, có nhiều tài sản vật dụng, có nhiều tiền của, ngũ cốc, các vị ấy có sanh cũng không thoát khỏi già và chết.

Yepi te, mahārāja, bhikkhū arahanto khīṇāsavā vusitavanto katakaraṇīyā ohitabhārā anuppattasadatthā parikkhīṇabhavasaṃyojanā sammadaññāvimuttā, tesaṃ pāyaṃ kāyo bhedanadhammo nikkhepanadhammo’’ti. Idamavoca...pe...

Thưa Ðại vương, cho đến các vị Tỷ-kheo, những bậc A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích tối hậu, đã đoạn được hữu kiết sử, đã được giải thoát nhờ chánh trí, cho đến thân này của các vị ấy cũng phải bị hủy hoại, cũng phải bị từ bỏ.

‘‘Jīranti ve rājarathā sucittā,

Atho sarīrampi jaraṃ upeti;

Satañca dhammo na jaraṃ upeti,

Santo have sabbhi pavedayantī’’ti.

Xe vua dầu mỹ diệu,

Rồi cũng phải hư hoại,

Thân thể này cũng vậy,

Rồi cũng phải già yếu.

Chỉ thiện pháp không già,

Bậc thiện nhân nói vậy.

Long xa đẹp vẫn hư,

Thân nầy rồi lão hoá,

Có pháp không bị già:

Pháp Bậc Chí Thiện dạy.


Jīranti ve rājarathā sucittā

Xe vua dù thật đẹp cũng hư mòn

Atho sarīrampi jaraṃ upeti

Thì thân nầy rồi sẽ đến lúc già nua

Satañca dhammo na jaraṃ upeti

Có pháp không đi đến lão hoá

Santo have sabbhi pavedayantī’’ti

Chính là pháp được tuyên thuyết bởi Bậc Chí Thiện

Theo Sớ giải chữ dhamma được hiểu là pháp thiện (đối lập với adhamma – phi pháp) đi với chữ sabbhi - bậc thiện phải hiểu là “pháp tối thiện được tuyên bố bởi Bậc Chí Thiện”. Hàm ý là chân như niết bàn được tuyên thuyết do Đức Phật. Chữ thiện trong cả hai “tối thiện” và “chí thiện” mang ý nghĩa “vượt lên hai đối đãi thiện ác”. Đây là điểm rất tế nhị trong Phật học.

Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu

Hiệu đính và biên soạn Giáo trình: Tỳ kheo Giác Đẳng

-ooOoo-

3. Jarāmaraṇasuttaṃ [Mūla]

114. Sāvatthinidānaṃ. Ekamantaṃ nisinno kho rājā pasenadi kosalo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘atthi nu kho, bhante, jātassa aññatra jarāmaraṇā’’ti? ‘‘Natthi kho, mahārāja, jātassa aññatra jarāmaraṇā. Yepi te, mahārāja, khattiyamahāsālā aḍḍhā mahaddhanā mahābhogā pahūtajātarūparajatā pahūtavittūpakaraṇā pahūtadhanadhaññā, tesampi jātānaṃ natthi aññatra jarāmaraṇā. Yepi te, mahārāja, brāhmaṇamahāsālā...pe... gahapatimahāsālā aḍḍhā mahaddhanā mahābhogā pahūtajātarūparajatā pahūtavittūpakaraṇā pahūtadhanadhaññā, tesampi jātānaṃ natthi aññatra jarāmaraṇā. Yepi te, mahārāja, bhikkhū arahanto khīṇāsavā vusitavanto katakaraṇīyā ohitabhārā anuppattasadatthā parikkhīṇabhavasaṃyojanā sammadaññāvimuttā, tesaṃ pāyaṃ kāyo bhedanadhammo nikkhepanadhammo’’ti. Idamavoca...pe...

‘‘Jīranti ve rājarathā sucittā,

Atho sarīrampi jaraṃ upeti;

Satañca dhammo na jaraṃ upeti,

Santo have sabbhi pavedayantī’’ti.

3. Jarāmaraṇasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

114. Tatiye aññatra jarāmaraṇāti jarāmaraṇato mutto nāma atthīti vuccati. Khattiyamahāsālāti khattiyamahāsālā nāma mahāsārappattā khattiyā. Yesaṃ hi khattiyānaṃ heṭṭhimantena koṭisataṃ nidhānagataṃ hoti, tayo kahāpaṇakumbhā valañjanatthāya gehamajjhe rāsiṃ katvā ṭhapitā honti, te khattiyamahāsālā nāma. Yesaṃ brāhmaṇānaṃ asītikoṭidhanaṃ nihitaṃ hoti, diyaḍḍho kahāpaṇakumbho valañjanatthāya gehamajjhe rāsiṃ katvā ṭhapito hoti, te brāhmaṇamahāsālā nāma. Yesaṃ gahapatīnaṃ cattālīsakoṭidhanaṃ nihitaṃ hoti, kahāpaṇakumbho valañjanatthāya gehamajjhe rāsiṃ katvā ṭhapito hoti, te gahapatimahāsālā nāma.

Aḍḍhāti issarā. Nidhānagatadhanassa mahantatāya mahaddhanā. Suvaṇṇarajatabhājanādīnaṃ upabhogabhaṇḍānaṃ mahantatāya mahābhogā. Anidhānagatassa jātarūparajatassa pahūtatāya, pahūtajātarūparajatā. Vittūpakaraṇassa tuṭṭhikaraṇassa pahūtatāya pahūtavittūpakaraṇā. Godhanādīnañca sattavidhadhaññānañca pahūtatāya pahūtadhanadhaññā. Tesampi jātānaṃ natthi aññatra jarāmaraṇāti tesampi evaṃ issarānaṃ jātānaṃ nibbattānaṃ natthi aññatra jarāmaraṇā, jātattāyeva jarāmaraṇato mokkho nāma natthi, antojarāmaraṇeyeva hoti.

Arahantotiādīsu ārakā kilesehīti arahanto. Khīṇā etesaṃ cattāro āsavāti khīṇāsavā. Brahmacariyavāsaṃ vuṭṭhā pariniṭṭhitavāsāti vusitavanto. Catūhi maggehi karaṇīyaṃ etesaṃ katanti katakaraṇīyā. Khandhabhāro kilesabhāro abhisaṅkhārabhāro kāmaguṇabhāroti, ime ohitā bhārā etesanti ohitabhārā. Anuppatto arahattasaṅkhāto sako attho etesanti anuppattasadatthā. Dasavidhampi parikkhīṇaṃ bhavasaṃyojanaṃ etesanti parikkhīṇabhavasaṃyojanā. Sammā kāraṇehi jānitvā vimuttāti sammadaññāvimuttā. Maggapaññāya catusaccadhammaṃ ñatvā phalavimuttiyā vimuttāti attho. Bhedanadhammoti bhijjanasabhāvo. Nikkhepanadhammoti nikkhipitabbasabhāvo. Khīṇāsavassa hi ajīraṇadhammopi atthi, ārammaṇato paṭividdhaṃ nibbānaṃ, taṃ hi na jīrati. Idha panassa jīraṇadhammaṃ dassento evamāha. Atthuppattiko kirassa suttassa nikkhepo. Sivikasālāya nisīditvā kathitanti vadanti. Tattha bhagavā citrāni rathayānādīni disvā diṭṭhameva upamaṃ katvā, ‘‘jīranti ve rājarathā’’ti gāthamāha.

Tattha jīrantīti jaraṃ pāpuṇanti. Rājarathāti rañño abhirūhanarathā. Sucittāti suvaṇṇarajatādīhi suṭṭhu cittitā. Atho sarīrampi jaraṃ upetīti evarūpesu anupādiṇṇakesu sāradārumayesu rathesu jīrantesu imasmiṃ ajjhattike upādiṇṇake maṃsalohitādimaye sarīre kiṃ vattabbaṃ? Sarīrampi jaraṃ upetiyevāti attho. Santo have sabbhi pavedayantīti santo sabbhīhi saddhiṃ sataṃ dhammo na jaraṃ upetīti evaṃ pavedayanti. ‘‘Sataṃ dhammo nāma nibbānaṃ, taṃ na jīrati, ajaraṃ amatanti evaṃ kathentī’’ti attho. Yasmā vā nibbānaṃ āgamma sīdanasabhāvā kilesā bhijjanti, tasmā taṃ sabbhīti vuccati. Iti purimapadassa kāraṇaṃ dassento ‘‘santo have sabbhi pavedayantī’’ti āha. Idaṃ hi vuttaṃ hoti – sataṃ dhammo na jaraṃ upeti, tasmā santo sabbhi pavedayanti. Ajaraṃ nibbānaṃ sataṃdhammoti ācikkhantīti attho. Sundarādhivacanaṃ vā etaṃ sabbhīti. Yaṃ sabbhidhammabhūtaṃ nibbānaṃ santo pavedayanti kathayanti, so sataṃ dhammo na jaraṃ upetītipi attho. Tatiyaṃ.