Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || CÁI NGON NGỌT THƯỜNG LÀ CÁI ĐỘC HẠI - Kinh Cạm Bẩy Của Ma I & II (Paṭhamamārapāsasuttaṃ) (Dutiyamārapāsasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || CÁI NGON NGỌT THƯỜNG LÀ CÁI ĐỘC HẠI - Kinh Cạm Bẩy Của Ma I & II (Paṭhamamārapāsasuttaṃ) (Dutiyamārapāsasuttaṃ)

Wednesday, 07/05/2025, 03:21 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 29.4.2025

CÁI NGON NGỌT THƯỜNG LÀ CÁI ĐỘC HẠI

Kinh Cạm Bẩy Của Ma I & II (Paṭhamamārapāsasuttaṃ) (Dutiyamārapāsasuttaṃ)

Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Thế Giới Dục Trưởng Dưỡng (SN.35.114&115)

A dark forest with a tree and a bat

AI-generated content may be incorrect.

Ma trong văn hoá Đông Phương cũng như Satan trong văn hoá Tây phương là thế lực đáng sợ, thường chi phối bằng sự cám dỗ. Trong vị ngọt có hiểm nạn. Quan trọng hơn nữa là phải biết cách xuất ly. Đương đầu với ác ma không phải chỉ có ý chí đơn thuần mà còn cần tới tuệ giác.

KINH VĂN

114. Kinh Cạm Bẩy Của Ma I (Paṭhamamārapāsasuttaṃ)

“Santi, bhikkhave, cakkhuviññeyyā rūpā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā. Tañce, bhikkhu, abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati — ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu āvāsagato mārassa, mārassa vasaṃ gato, paṭimukkassa mārapāso. Baddho so mārabandhanena, yathākāmakaraṇīyo pāpimato.”

"Này chư Tỳ khưu, có những sắc nhận biết bởi nhãn thức khả hỷ, khả ý, khả ái, gắn liền với dục, làm cho mê đắm. Nếu một tỳ khưu yêu thích, hoan hỷ, chấp thủ những sắc ấy, thì gọi là người đi vào sào huyệt của Ma vương, bị Ma vương chi phối, bị rơi vào bẫy của Ma. Bị trói buộc bởi xiềng xích của Ma, kẻ ấy trở thành kẻ chịu sự sai khiến tùy thích của Ác Ma."


“Santi, bhikkhave, jivhāviññeyyā rasā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.Tañce bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati — ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu āvāsagato mārassa, mārassa vasaṃ gato, paṭimukkassa mārapāso. Baddho so mārabandhanena … pe ….”

"Này chư Tỳ khưu, có những âm thanh…, mùi hương…, cảnh vị…, cảnh xúc nhận biết bởi thân thức khả hỷ, khả ý, khả ái, gắn liền với dục, làm cho mê đắm. Nếu một tỳ khưu yêu thích, hoan hỷ, chấp thủ những sắc ấy thì gọi là người đi vào sào huyệt của Ma vương, bị Ma vương chi phối, bị rơi vào bẫy của Ma. Bị trói buộc bởi xiềng xích của Ma, kẻ ấy trở thành kẻ chịu sự sai khiến tùy thích của Ác Ma."

“santi, bhikkhave, manoviññeyyā dhammā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā. tañce bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati — ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu āvāsagato mārassa, mārassa vasaṃ gato, paṭimukkassa mārapāso. baddho so mārabandhanena yathākāmakaraṇīyo pāpimato.

"Này chư Tỳ khưu, có những cảnh pháp nhận biết bởi ý thức khả hỷ, khả ý, khả ái, gắn liền với dục, làm cho mê đắm. Nếu một tỳ khưu yêu thích, hoan hỷ, chấp thủ những sắc ấy, thì gọi là người đi vào sào huyệt của Ma vương, bị Ma vương chi phối, bị rơi vào bẫy của Ma. Bị trói buộc bởi xiềng xích của Ma, kẻ ấy trở thành người chịu sự sai khiến tùy thích của Ác Ma."

“Santi ca kho, bhikkhave, cakkhuviññeyyā rūpā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā. Tañce bhikkhu nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati — ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu nāvāsagato mārassa, na mārassa vasaṃ gato, ummukkassa mārapāso. Mutto so mārabandhanena, na yathākāmakaraṇīyo pāpimato.”

"Này chư Tỳ khưu, có những sắc nhận biết bởi nhãn thức khả hỷ, khả ý, khả ái, gắn liền với dục, làm cho mê đắm. Nếu một tỳ khưu không yêu thích, không hoan hỷ, không chấp thủ những sắc ấy, thì gọi là người không đi vào sào huyệt của Ma vương, không bị Ma vương chi phối, thoát bẫy của Ma. Không bị trói buộc bởi xiềng xích của Ma, vị ấy không trở thành người chịu sự sai khiến tùy thích của Ác Ma."

“Santi, bhikkhave, jivhāviññeyyā rasā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
Tañce bhikkhu nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati — ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu nāvāsagato mārassa, na mārassa vasaṃ gato, ummukkassa mārapāso. Mutto so mārabandhanena, na yathākāmakaraṇīyo pāpimato … pe ….”


"Này chư Tỳ khưu, có những âm thanh…, mùi hương…, cảnh vị…, cảnh xúc nhận biết bởi thân thức khả hỷ, khả ý, khả ái, gắn liền với dục, làm cho mê đắm. Nếu một tỳ khưu không yêu thích, không hoan hỷ, không chấp thủ những sắc ấy, thì gọi là người không đi vào sào huyệt của Ma vương, không bị Ma vương chi phối, thoát bẫy của Ma. Không bị trói buộc bởi xiềng xích của Ma, vị ấy không trở thành người chịu sự sai khiến tùy thích của Ác Ma."

“Santi, bhikkhave, manoviññeyyā dhammā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.Tañce bhikkhu nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati — ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu nāvāsagato mārassa, na mārassa vasaṃ gato, ummukkassa mārapāso. Mutto so mārabandhanena, na yathākāmakaraṇīyo pāpimato.”


"Này chư Tỳ khưu, có những cảnh pháp nhận biết bởi ý thức khả hỷ, khả ý, khả ái, gắn liền với dục, làm cho mê đắm. Nếu một tỳ khưu không yêu thích, không hoan hỷ, không chấp thủ những sắc ấy, thì gọi là người không đi vào sào huyệt của Ma vương, không bị Ma vương chi phối, thoát bẫy của Ma. Không bị trói buộc bởi xiềng xích của Ma, vị ấy không trở thành người chịu sự sai khiến tùy thích của Ác Ma."

114. Kinh Cạm Bẩy Của Ma II (Dutiyamārapāsasuttaṃ)

Santi, bhikkhave, cakkhuviññeyyā rūpā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā. Tañce bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati — ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu baddho cakkhuviññeyyesu rūpesu, āvāsagato mārassa, mārassa vasaṃ gato, paṭimukkassa mārapāso. Baddho so mārabandhanena, yathākāmakaraṇīyo pāpimato.

"Này chư Tỳ khưu, có những sắc nhận biết bởi nhãn thức khả hỷ, khả ý, khả ái, gắn liền với dục, làm cho mê đắm. Nếu một tỳ khưu yêu thích, hoan hỷ, chấp thủ những sắc ấy, thì gọi là người vướng kẹt cảnh sắc, bị Ma vương chi phối, bị rơi vào bẫy của Ma. Bị trói buộc bởi xiềng xích của Ma, kẻ ấy trở thành kẻ chịu sự sai khiến tùy thích của Ác Ma."

Santi, bhikkhave, jivhāviññeyyā rasā ... pe ... santi, bhikkhave, manoviññeyyā dhammā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā. Tañce bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati — ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu baddho manoviññeyyesu dhammesu, āvāsagato mārassa, mārassa vasaṃ gato, paṭimukkassa mārapāso. Baddho so mārabandhanena, yathākāmakaraṇīyo pāpimato.

"Này chư Tỳ khưu, có những âm thanh…, mùi hương…, cảnh vị…., cảnh xúc…, cảnh pháp khả hỷ, khả ý, khả ái, gắn liền với dục, làm cho mê đắm. Nếu một tỳ khưu yêu thích, hoan hỷ, chấp thủ những pháp ấy, thì gọi là người vướng kẹt cảnh pháp, bị Ma vương chi phối, bị rơi vào bẫy của Ma. Bị trói buộc bởi xiềng xích của Ma, kẻ ấy trở thành kẻ chịu sự sai khiến tùy thích của Ác Ma."

Santi ca kho, bhikkhave, cakkhuviññeyyā rūpā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā. Tañce bhikkhu nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati — ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu mutto cakkhuviññeyyehi rūpehi, nāvāsagato mārassa, na mārassa vasaṃ gato, ummukkassa mārapāso. Mutto so mārabandhanena, na yathākāmakaraṇīyo pāpimato.

"Này chư Tỳ khưu, có những sắc nhận biết bởi nhãn thức khả hỷ, khả ý, khả ái, gắn liền với dục, làm cho mê đắm. Nếu một tỳ khưu không yêu thích, không hoan hỷ, không chấp thủ những sắc ấy, thì gọi là người không vướng kẹt cảnh sắc, không bị Ma vương chi phối, không bị rơi vào bẫy của Ma. Không bị trói buộc bởi xiềng xích của Ma, kẻ ấy không trở thành người chịu sự sai khiến tùy thích của Ác Ma."

Santi, bhikkhave, jivhāviññeyyā rasā ... pe ... santi, bhikkhave, manoviññeyyā dhammā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā. Tañce bhikkhu nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati — ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu mutto manoviññeyyehi dhammehi, nāvāsagato mārassa, na mārassa vasaṃ gato, ummukkassa mārapāso. Mutto so mārabandhanena, na yathākāmakaraṇīyo pāpimato.”

"Này chư Tỳ khưu, có những âm thanh…, mùi hương…, cảnh vị…., cảnh xúc…, cảnh pháp khả hỷ, khả ý, khả ái, gắn liền với dục, làm cho mê đắm. Nếu một tỳ khưu không yêu thích, không hoan hỷ, không chấp thủ cảnh pháp ấy, thì gọi là người không vướng kẹt cảnh pháp, không bị Ma vương chi phối, không bị rơi vào bẫy của Ma. Không bị trói buộc bởi xiềng xích của Ma, kẻ ấy không trở thành người chịu sự sai khiến tùy thích của Ác Ma."

CHÚ THÍCH

Hai bài kinh trên mới đọc thì như giống nhau, nhưng khác ở điểm là bài kinh đầu nói về “đi vào sào huyệt của Ác ma - āvāsagato mārassa" giống như cá chui vào rọ. Bài kinh thứ hai là bị vướng kẹt vào cảnh trần - saṅkhitto" = như cá cắn câu.

Theo Sớ giải, thì Ma ở đây gồm ba loại (thay vì năm) là phiền não ma, tử thần ma và thiên tử ma.

Chữ pāpimato ở đây nói về “Ác ma” một cách biểu thị của “đáng gờm”.

SỚ GIẢI

114-115. lokakāmaguṇavaggassa paṭhame āvāsagatoti vasanaṭṭhānaṃ gato. mārassa vasaṃ gatoti tividhassāpi mārassa vasaṃ gato. paṭimukka’ssa mārapāsoti assa gīvāya mārapāso paṭimukko pavesito. dutiyaṃ uttānameva.


Lokakāmaguṇavaggassa paṭhame āvāsagatoti vasanaṭṭhānaṃ gato.
Trong bài kinh thứ nhất của nhóm "Các dục lạc thế gian", "āvāsagato" nghĩa là "đi vào nơi cư trú", tức là đã đi vào vòng cương toả (của Ma vương).

Mārassa vasaṃ gatoti tividhassāpi mārassa vasaṃ gato.
"Bị Ma vương chi phối" có nghĩa là đã rơi vào quyền lực của ba loại Ma (Māra) — tức ba hình thức Ma vương:

  • Kilesa-māra: Phiền não Ma (tham, sân, si, v.v.).
  • Maccu-māra: Tử thần Ma (cái chết).
  • Devaputta-māra: Thiên tử ma (chúng sinh trong cõi trời cản trở sự tu hành).

Paṭimukka’ssa mārapāsoti assa gīvāya mārapāso paṭimukko pavesito.
"Cái bẫy của Ma được tròng vào" nghĩa là:
Cái bẫy (thòng lọng) của Ma đã vòng vào cổ (gīvāya) của người ấy và đặt chặt vào, như một thòng lọng trói buộc.

Dutiyaṃ uttānameva.
Bài Kinh thứ hai thì ý nghĩa rõ ràng, dễ hiểu (uttāna), không cần giải thích thêm.

Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu

II. Phẩm Thế Giới Dục Công Ðức

114. I. Màra (Ma) Lưới Bẫy (S.iv,91)

1) ...

2-7) -- Này các Tỷ-kheo, có những sắc do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu một Tỷ-kheo hoan hỷ sắc ấy, tán dương, tham luyến an trú; thời này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo đã đi đến trú xứ của Ma, đã bị Ma chinh phục. Lưới bẫy của Ma đoanh vây vị ấy. Bị Ma trói buộc, vị ấy bị Ác ma muốn làm gì vị ấy thì làm... Này các Tỷ-kheo, có những pháp do ý nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ pháp ấy, tán dương, tham luyến an trú; thời này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo đã đi đến trú xứ của Ma, đã bị Ma chinh phục. Lưới bẫy của Ma đoanh vây vị ấy. Bị Ma trói buộc, vị ấy bị Ác ma muốn làm gì vị ấy thì làm.

8-13) Này các Tỷ-kheo, có những sắc do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ sắc ấy, không tán dương, không tham luyến an trú; thời này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo không đi đến trú xứ của Ma, không bị Ma chinh phục. Lưới bẫy của Ma không đoanh vây vị ấy. Ðược giải thoát khỏi Ma trói buộc, vị ấy không bị Ác ma muốn làm gì vị ấy thì làm... Này các Tỷ-kheo, có những pháp do ý nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ pháp ấy, không tán dương, không tham luyến an trú; thời này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo không đi đến trú xứ của Ma, không bị Ma chinh phục. Lưới bẫy của Ma không đoanh vây vị ấy. Ðược giải thoát khỏi Ma trói buộc, vị ấy không bị Ác ma muốn làm gì vị ấy thì làm.

115. II. Màra (Ma) Lưới Bẫy (S.iv,92)

1) ...

2-7) -- Này các Tỷ-kheo, có những sắc do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ sắc ấy, tán dương, tham luyến an trú; thời này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo bị trói buộc trong các sắc do mắt nhận thức, đã đi đến trú xứ của Ma, đã bị Ma chinh phục, bị Ác ma muốn làm gì vị ấy thì làm... Này các Tỷ-kheo, có những pháp do ý nhận thức... tham luyến an trú; thời này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo bị trói buộc trong các pháp do ý nhận thức, đã đi đến trú xứ của Ma, đã bị Ma chinh phục, bị Ác ma muốn làm gì vị ấy thì làm.

8-13) Này các Tỷ-kheo, có những sắc do mắt nhận thức, khả lạc... hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ sắc ấy, không tán dương, không tham luyến an trú; thời này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo được giải thoát khỏi các sắc do mắt nhận thức, không đi vào trú xứ của Ma, không bị Ma chinh phục, không bị Ác ma muốn làm gì thì làm... Này các Tỷ-kheo, có những pháp do ý nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ pháp ấy, không tán dương, không tham luyến an trú; thời này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo được giải thoát khỏi các pháp do ý nhận thức, không đi vào trú xứ của Ma, không bị Ma chinh phục, không bị Ác ma muốn làm gì thì làm.