- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Abbot: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Website: chuaphapluan.com
- View Map
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 13.3.2024
BIẾT THẾ NÀO LÀ THẬT BIẾT
Kinh Vị Ngọt (Assādasuttaṃ)
Tập III – Uẩn
Chương I. Tương Ưng Uẩn-Phần I-Phẩm Gánh Nặng (S,iii,26)
Đau khổ không phải chỉ là vấn đề để than thở, mà theo Phật Pháp, còn là công án thắp sáng tuệ giác. Câu trả lời không phải là sự chợt hiểu tình cờ, mà ở những nền tảng vốn được nêu rõ qua giáo lý tứ diệu đế về bản chất của khổ đau, nguyên nhân sanh khổ, sự diệt khổ và con đường đưa đến sự diệt khổ. Năm thủ uẩn là khổ, hàm chứa ý nghĩa về sự thật khổ đau của sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Cái hiểu gọi là thật sự hiểu phải quán triệt cả ba khía cạnh: vị ngọt, nguy hiểm và cách giải thoát. Chỉ biết phiến diện không giải quyết được vấn đề. Dù rằng bài kinh không nói về tứ diệu đế, nhưng bốn sự thật vi diệu này được nói và chứng minh một cách cụ thể.
Kinh văn
Sāvatthinidānaṃ.
“Pubbeva me, bhikkhave, sambodhā anabhisambuddhassa bodhisattasseva sato etadahosi: ko nu kho rūpassa assādo, ko ādīnavo, kiṃ nissaraṇaṃ? Ko vedanāya assādo, ko ādīnavo, kiṃ nissaraṇaṃ? Ko saññāya assādo, ko ādīnavo, kiṃ nissaraṇaṃ? Ko saṅkhārānaṃ assādo, ko ādīnavo, kiṃ nissaraṇaṃ? Ko viññāṇassa assādo, ko ādīnavo, kiṃ nissaraṇan’ti?
Nhân duyên ở Sāvatthi …
-- Này chư Tỳ khưu, lúc còn là bồ tát trước khi giác ngộ và chưa chứng toàn giác, Ta suy nghĩ như sau:
“Cái gì là vị ngọt, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly của sắc? Cái gì là vị ngọt, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly của thọ? Cái gì là vị ngọt, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly của tưởng? Cái gì là vị ngọt, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly của các hành? Cái gì là vị ngọt, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly của thức?”
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi: ‘yaṃ kho rūpaṃ paṭicca uppajjati sukhaṃ somanassaṃ, ayaṃ rūpassa assādo. Yaṃ rūpaṃ aniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, ayaṃ rūpassa ādīnavo. Yo rūpasmiṃ chandarāgavinayo chandarāgappahānaṃ, idaṃ rūpassa nissaraṇaṃ. Yaṃ vedanaṃ paṭicca uppajjati sukhaṃ somanassaṃ, ayaṃ vedanāya assādo. Yaṃ vedanā aniccā dukkhā vipariṇāmadhammā, ayaṃ vedanāya ādīnavo. Yo vedanāya chandarāgavinayo chandarāgappahānaṃ, idaṃ vedanāya nissaraṇaṃ. Yaṃ saññaṃ paṭicca uppajjati …pe… yaṃ saṅkhāre paṭicca uppajjati sukhaṃ somanassaṃ, ayaṃ saṅkhārānaṃ assādo. Yaṃ saṅkhārā aniccā dukkhā vipariṇāmadhammā, ayaṃ saṅkhārānaṃ ādīnavo. Yo saṅkhāresu chandarāgavinayo chandarāgappahānaṃ, idaṃ saṅkhārānaṃ nissaraṇaṃ. Yaṃ viññāṇaṃ paṭicca uppajjati sukhaṃ somanassaṃ, ayaṃ viññāṇassa assādo. Yaṃ viññāṇaṃ aniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, ayaṃ viññāṇassa ādīnavo. Yo viññāṇasmiṃ chandarāgavinayo chandarāgappahānaṃ, idaṃ viññāṇassa nissaraṇaṃ’.
Rồi này chư Tỳ khưu, Ta suy nghĩ như sau:
“Do duyên sắc, lạc và hỷ sanh; cái ấy gọi là vị ngọt của sắc. Sự vô thường, đau khổ, chịu sự biến hoại của sắc; cái ấy gọi là sự nguy hiểm của sắc. Sự nhiếp phục dục và tham đối với sắc, sự đoạn tận dục và tham; cái ấy là xuất ly của sắc”.
“Do duyên thọ, lạc và hỷ sanh …
“Do duyên tưởng, lạc và hỷ sanh …
“Do duyên các hành, lạc và hỷ sanh …
“Do duyên thức, lạc và hỷ sanh; cái ấy gọi là vị ngọt của thức. Sự vô thường, đau khổ, chịu sự biến hoại của thức; cái ấy gọi là sự nguy hiểm của thức. Sự nhiếp phục dục và tham đối với thức, sự đoạn tận dục và tham; cái ấy là sự xuất ly của thức”.
Yāvakīvañcāhaṃ, bhikkhave, imesaṃ pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ evaṃ assādañca assādato ādīnavañca ādīnavato nissaraṇañca nissaraṇato yathābhūtaṃ nābbhaññāsiṃ, neva tāvāhaṃ, bhikkhave, ‘sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti paccaññāsiṃ.
Này chư Tỳ khưu, cho đến khi nào đối với năm thủ uẩn này, Ta chưa biết rõ xác thật vị ngọt là vị ngọt, nguy hiểm là nguy hiểm, xuất ly là xuất ly, thời này chư Tỳ khưu, Ta không tuyên bố với thế giới gồm chư thiên, ma vương, phạm thiên, các hàng sa môn, bà la môn, trời, người rằng: Ta đã giác ngộ vô thượng Chánh Ðẳng Giác.
Yato ca khvāhaṃ, bhikkhave, imesaṃ pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ evaṃ assādañca assādato ādīnavañca ādīnavato nissaraṇañca nissaraṇato yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ; athāhaṃ, bhikkhave, sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddhoti paccaññāsiṃ.
Nhưng này chư Tỳ khưu, cho đến khi nào đối với năm thủ uẩn này, Ta biết rõ xác thật vị ngọt là vị ngọt, nguy hiểm là nguy hiểm, xuất ly là xuất ly, thời này chư Tỳ khưu, Ta tuyên bố với thế giới gồm chư thiên, ma vương, phạm thiên, các hàng sa môn, bà la môn, trời, người rằng: Ta đã giác ngộ vô thượng Chánh Ðẳng Giác.
Ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi: ‘akuppā me vimutti; ayamantimā jāti; natthi dāni punabbhavo’”ti.
Và hiểu biết như sau khởi lên nơi Ta:
“Tâm Ta chứng bất động giải thoát. Ðây là đời sống cuối cùng, không còn tái sanh nữa”.
Kinh Vị Ngọt II (Dutiya-assādasuttaṃ)
Tập III – Uẩn
Chương I. Tương Ưng Uẩn-Phần I-Phẩm Gánh Nặng (S,iii,27)
……
Kinh văn
Sāvatthinidānaṃ.
“Rūpassāhaṃ, bhikkhave, assādapariyesanaṃ acariṃ. Yo rūpassa assādo tadajjhagamaṃ. Yāvatā rūpassa assādo paññāya me so sudiṭṭho. Rūpassāhaṃ, bhikkhave, ādīnavapariyesanaṃ acariṃ. Yo rūpassa ādīnavo tadajjhagamaṃ. Yāvatā rūpassa ādīnavo paññāya me so sudiṭṭho. Rūpassāhaṃ, bhikkhave, nissaraṇapariyesanaṃ acariṃ. Yaṃ rūpassa nissaraṇaṃ tadajjhagamaṃ. Yāvatā rūpassa nissaraṇaṃ paññāya me taṃ sudiṭṭhaṃ.
Nhân duyên ở Sāvatthi …
—Này chư Tỳ khưu, Ta đã đi tìm hiểu vị ngọt của sắc. Ta đã khám phá vị ngọt của sắc là gì. Ta đã khéo thấy với trí tuệ vị ngọt của sắc như thế nào.
Ta đã đi tìm hiểu nguy hiểm của sắc. Ta đã khám phá nguy hiểm của sắc là gì. Ta đã khéo thấy với trí tuệ nguy hiểm của sắc như thế nào.
Ta đã đi tìm hiểu cách xuất ly của sắc. Ta đã khám phá cách xuất ly của sắc là gì. Ta đã khéo thấy với trí tuệ cách xuất ly của sắc như thế nào.
Vedanāyāhaṃ, bhikkhave … saññāyāhaṃ, bhikkhave … saṅkhārānāhaṃ, bhikkhave … viññāṇassāhaṃ, bhikkhave, assādapariyesanaṃ acariṃ. Yo viññāṇassa assādo tadajjhagamaṃ. Yāvatā viññāṇassa assādo paññāya me so sudiṭṭho. Viññāṇassāhaṃ, bhikkhave, ādīnavapariyesanaṃ acariṃ. Yo viññāṇassa ādīnavo tadajjhagamaṃ. Yāvatā viññāṇassa ādīnavo paññāya me so sudiṭṭho. Viññāṇassāhaṃ, bhikkhave, nissaraṇapariyesanaṃ acariṃ. Yaṃ viññāṇassa nissaraṇaṃ tadajjhagamaṃ. Yāvatā viññāṇassa nissaraṇaṃ paññāya me taṃ sudiṭṭhaṃ.
Này chư Tỳ khưu, Ta đi tìm hiểu vị ngọt của thọ …
Này chư Tỳ khưu, Ta đã đi tìm hiểu vị ngọt của tưởng …
Này chư Tỳ khưu, Ta đã đi tìm hiểu vị ngọt của các hành …
Này chư Tỳ khưu, Ta đã đi tìm hiểu vị ngọt của thức. Ta đã khám phá vị ngọt của thức là gì. Ta đã khéo thấy với trí tuệ vị ngọt của thức như thế nào.
Ta đã đi tìm hiểu nguy hiểm của thức. Ta đã khám phá nguy hiểm của thức là gì. Ta đã khéo thấy với trí tuệ nguy hiểm của thức như thế nào.
Ta đã đi tìm hiểu cách xuất ly của thức. Ta đã khám phá cách xuất ly của thức là gì. Ta đã khéo thấy với trí tuệ cách xuất ly của thức như thế nào.
Yāvakīvañcāhaṃ, bhikkhave, imesaṃ pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ assādañca assādato ādīnavañca ādīnavato nissaraṇañca nissaraṇato yathābhūtaṃ nābbhaññāsiṃ …pe… abbhaññāsiṃ.
Này chư Tỳ khưu, cho đến khi nào đối với năm thủ uẩn này, Ta chưa như thật biết vị ngọt là vị ngọt, nguy hiểm là sự nguy hiểm, xuất ly là xuất ly, thời này chư Tỳ khưu, Ta không tuyên bố rằng … Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người.
Ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi: ‘akuppā me vimutti; ayamantimā jāti; natthi dāni punabbhavo’”ti.
Và tri kiến như sau khởi lên nơi Ta: “Tâm Ta chứng bất động giải thoát. Ðây là đời sống cuối cùng, không còn tái sanh nữa”.
Kinh Vị Ngọt III (Tatiya-assādasuttaṃ)
Tập III – Uẩn
Chương I. Tương Ưng Uẩn-Phần I-Phẩm Gánh Nặng (S,iii,28)
……
Kinh văn
Sāvatthinidānaṃ.
“No cedaṃ, bhikkhave, rūpassa assādo abhavissa nayidaṃ sattā rūpasmiṃ sārajjeyyuṃ. Yasmā ca kho, bhikkhave, atthi rūpassa assādo, tasmā sattā rūpasmiṃ sārajjanti. No cedaṃ, bhikkhave, rūpassa ādīnavo abhavissa nayidaṃ sattā rūpasmiṃ nibbindeyyuṃ. Yasmā ca kho, bhikkhave, atthi rūpassa ādīnavo, tasmā sattā rūpasmiṃ nibbindanti. No cedaṃ, bhikkhave, rūpassa nissaraṇaṃ abhavissa nayidaṃ sattā rūpasmā nissareyyuṃ. Yasmā ca kho, bhikkhave, atthi rūpassa nissaraṇaṃ, tasmā sattā rūpasmā nissaranti.
Nhân duyên tại Sāvatthi …
Này chư Tỳ khưu, nếu không có sự nguy hiểm của sắc, thời các loài hữu tình không có yểm ly đối với sắc. Này chư Tỳ khưu, vì rằng có sự nguy hiểm của sắc cho nên các loài hữu tình có nhàm chán đối với sắc.
Này chư Tỳ khưu, nếu không có sự xuất ly đối với sắc, thời các loài hữu tình không có xuất ly đối với sắc. Này chư Tỳ khưu, vì có sự xuất ly của sắc cho nên các loài hữu tình có vượt thoát đối với sắc.
No cedaṃ, bhikkhave, vedanāya …pe… no cedaṃ, bhikkhave, saññāya … no cedaṃ, bhikkhave, saṅkhārānaṃ nissaraṇaṃ abhavissa, nayidaṃ sattā saṅkhārehi nissareyyuṃ. Yasmā ca kho, bhikkhave, atthi saṅkhārānaṃ nissaraṇaṃ, tasmā sattā saṅkhārehi nissaranti. No cedaṃ, bhikkhave, viññāṇassa assādo abhavissa, nayidaṃ sattā viññāṇasmiṃ sārajjeyyuṃ. Yasmā ca kho, bhikkhave, atthi viññāṇassa assādo, tasmā sattā viññāṇasmiṃ sārajjanti. No cedaṃ, bhikkhave, viññāṇassa ādīnavo abhavissa, nayidaṃ sattā viññāṇasmiṃ nibbindeyyuṃ. Yasmā ca kho, bhikkhave, atthi viññāṇassa ādīnavo, tasmā sattā viññāṇasmiṃ nibbindanti. No cedaṃ, bhikkhave, viññāṇassa nissaraṇaṃ abhavissa, nayidaṃ sattā viññāṇasmā nissareyyuṃ. Yasmā ca kho, bhikkhave, atthi viññāṇassa nissaraṇaṃ, tasmā sattā viññāṇasmā nissaranti.
Này chư Tỳ khưu, nếu không có vị ngọt của thọ …
Này chư Tỳ khưu, nếu không có vị ngọt của tưởng …
Này chư Tỳ khưu, nếu không có vị ngọt của các hành …
Này chư Tỳ khưu, nếu không có vị ngọt của thức, thời các loài hữu tình không có tham đắm đối với thức. Này chư Tỳ khưu, vì rằng có vị ngọt của thức cho nên các loài hữu tình có tham đắm đối với thức.
Này chư Tỳ khưu, nếu không có sự nguy hiểm của thức, thời các loài hữu tình không có yếm ly đối với thức. Này chư Tỳ khưu, vì rằng có sự nguy hiểm của thức cho nên các loài hữu tình có nhàm chán đối với thức.
Này chư Tỳ khưu, nếu không có sự xuất ly đối với thức, thời các loài hữu tình không có xuất ly đối với thức. Này chư Tỳ khưu, vì có sự xuất ly của thức cho nên các loài hữu tình có vượt thoát đối với thức.
Yāvakīvañca, bhikkhave, sattā imesaṃ pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ assādañca assādato ādīnavañca ādīnavato nissaraṇañca nissaraṇato yathābhūtaṃ nābbhaññaṃsu; neva tāva, bhikkhave, sattā sadevakā lokā samārakā sabrahmakā sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya nissaṭā visaṃyuttā vippamuttā vimariyādīkatena cetasā vihariṃsu.
Này chư Tỳ khưu, khi nào các loài hữu tình đối với năm thủ uẩn này không liễu tri xác thực vị ngọt là vị ngọt, nguy hiểm là nguy hiểm, xuất ly là xuất ly, thời các loài hữu tình ấy, này chư Tỳ khưu, với thế giới chư Thiên, Ma, Phạm thiên, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, không thể sống xuất ly, thoát sự liên hệ, giải thoát, với tâm tự tại.
Yato ca kho, bhikkhave, sattā imesaṃ pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ assādañca assādato ādīnavañca ādīnavato nissaraṇañca nissaraṇato yathābhūtaṃ abbhaññaṃsu; atha, bhikkhave, sattā sadevakā lokā samārakā sabrahmakā sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya nissaṭā visaṃyuttā vippamuttā vimariyādīkatena cetasā viharanti”.
Và này chư Tỳ khưu, khi nào các loài hữu tình đối với năm thủ uẩn này, như thật thắng tri vị ngọt là vị ngọt, nguy hiểm là nguy hiểm, xuất ly là xuất ly, thời các loài hữu tình ấy, này chư Tỳ khưu, với thế giới chư Thiên, Ma, Phạm thiên, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, có thể sống xuất ly, thoát sự liên hệ, giải thoát, với tâm tự tại.
Chú Thích
Theo Sớ giải thì cả ba bài kinh này đều nói về năm uẩn qua ba khía cạnh: vị ngọt, sự nguy hiểm, phương cách xuất ly. Bài kinh đầu tiên nói về bản chất nhận dạng của từng khía cạnh. Bài kinh thứ hai nói về nguyên nhân tác động. Bài kinh thứ ba nói về cơ sở chứng minh sự giải thoát là khả thi.
Sớ giải cũng nói là cả ba bài kinh đều trình bày theo hệ luận tứ đế. Và ở mỗi phần kết đều nhấn mạnh sự chấm dứt trầm luân sanh tử.
Tỳ khưu Giác Đẳng soạn dịch
5. Assādasuttaṃ
26. Sāvatthinidānaṃ.
“Pubbeva me, bhikkhave, sambodhā anabhisambuddhassa bodhisattasseva sato etadahosi: ko nu kho rūpassa assādo, ko ādīnavo, kiṃ nissaraṇaṃ? Ko vedanāya assādo, ko ādīnavo, kiṃ nissaraṇaṃ? Ko saññāya assādo, ko ādīnavo, kiṃ nissaraṇaṃ? Ko saṅkhārānaṃ assādo, ko ādīnavo, kiṃ nissaraṇaṃ? Ko viññāṇassa assādo, ko ādīnavo, kiṃ nissaraṇan’ti?
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi: ‘yaṃ kho rūpaṃ paṭicca uppajjati sukhaṃ somanassaṃ, ayaṃ rūpassa assādo. Yaṃ rūpaṃ aniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, ayaṃ rūpassa ādīnavo. Yo rūpasmiṃ chandarāgavinayo chandarāgappahānaṃ, idaṃ rūpassa nissaraṇaṃ. Yaṃ vedanaṃ paṭicca uppajjati sukhaṃ somanassaṃ, ayaṃ vedanāya assādo. Yaṃ vedanā aniccā dukkhā vipariṇāmadhammā, ayaṃ vedanāya ādīnavo. Yo vedanāya chandarāgavinayo chandarāgappahānaṃ, idaṃ vedanāya nissaraṇaṃ. Yaṃ saññaṃ paṭicca uppajjati …pe… yaṃ saṅkhāre paṭicca uppajjati sukhaṃ somanassaṃ, ayaṃ saṅkhārānaṃ assādo. Yaṃ saṅkhārā aniccā dukkhā vipariṇāmadhammā, ayaṃ saṅkhārānaṃ ādīnavo. Yo saṅkhāresu chandarāgavinayo chandarāgappahānaṃ, idaṃ saṅkhārānaṃ nissaraṇaṃ. Yaṃ viññāṇaṃ paṭicca uppajjati sukhaṃ somanassaṃ, ayaṃ viññāṇassa assādo. Yaṃ viññāṇaṃ aniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, ayaṃ viññāṇassa ādīnavo. Yo viññāṇasmiṃ chandarāgavinayo chandarāgappahānaṃ, idaṃ viññāṇassa nissaraṇaṃ’.
Yāvakīvañcāhaṃ, bhikkhave, imesaṃ pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ evaṃ assādañca assādato ādīnavañca ādīnavato nissaraṇañca nissaraṇato yathābhūtaṃ nābbhaññāsiṃ, neva tāvāhaṃ, bhikkhave, ‘sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti paccaññāsiṃ.
Yato ca khvāhaṃ, bhikkhave, imesaṃ pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ evaṃ assādañca assādato ādīnavañca ādīnavato nissaraṇañca nissaraṇato yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ; athāhaṃ, bhikkhave, sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddhoti paccaññāsiṃ.
Ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi: ‘akuppā me vimutti; ayamantimā jāti; natthi dāni punabbhavo’”ti. Pañcamaṃ.
6. Dutiya-assādasuttaṃ
27. Sāvatthinidānaṃ.
“Rūpassāhaṃ, bhikkhave, assādapariyesanaṃ acariṃ. Yo rūpassa assādo tadajjhagamaṃ. Yāvatā rūpassa assādo paññāya me so sudiṭṭho. Rūpassāhaṃ, bhikkhave, ādīnavapariyesanaṃ acariṃ. Yo rūpassa ādīnavo tadajjhagamaṃ. Yāvatā rūpassa ādīnavo paññāya me so sudiṭṭho. Rūpassāhaṃ, bhikkhave, nissaraṇapariyesanaṃ acariṃ. Yaṃ rūpassa nissaraṇaṃ tadajjhagamaṃ. Yāvatā rūpassa nissaraṇaṃ paññāya me taṃ sudiṭṭhaṃ.
Vedanāyāhaṃ, bhikkhave … saññāyāhaṃ, bhikkhave … saṅkhārānāhaṃ, bhikkhave … viññāṇassāhaṃ, bhikkhave, assādapariyesanaṃ acariṃ. Yo viññāṇassa assādo tadajjhagamaṃ. Yāvatā viññāṇassa assādo paññāya me so sudiṭṭho. Viññāṇassāhaṃ, bhikkhave, ādīnavapariyesanaṃ acariṃ. Yo viññāṇassa ādīnavo tadajjhagamaṃ. Yāvatā viññāṇassa ādīnavo paññāya me so sudiṭṭho. Viññāṇassāhaṃ, bhikkhave, nissaraṇapariyesanaṃ acariṃ. Yaṃ viññāṇassa nissaraṇaṃ tadajjhagamaṃ. Yāvatā viññāṇassa nissaraṇaṃ paññāya me taṃ sudiṭṭhaṃ.
Yāvakīvañcāhaṃ, bhikkhave, imesaṃ pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ assādañca assādato ādīnavañca ādīnavato nissaraṇañca nissaraṇato yathābhūtaṃ nābbhaññāsiṃ …pe… abbhaññāsiṃ.
Ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi: ‘akuppā me vimutti; ayamantimā jāti; natthi dāni punabbhavo’”ti. Chaṭṭhaṃ.
7. Tatiya-assādasuttaṃ
28. Sāvatthinidānaṃ.
“No cedaṃ, bhikkhave, rūpassa assādo abhavissa nayidaṃ sattā rūpasmiṃ sārajjeyyuṃ. Yasmā ca kho, bhikkhave, atthi rūpassa assādo, tasmā sattā rūpasmiṃ sārajjanti. No cedaṃ, bhikkhave, rūpassa ādīnavo abhavissa nayidaṃ sattā rūpasmiṃ nibbindeyyuṃ. Yasmā ca kho, bhikkhave, atthi rūpassa ādīnavo, tasmā sattā rūpasmiṃ nibbindanti. No cedaṃ, bhikkhave, rūpassa nissaraṇaṃ abhavissa nayidaṃ sattā rūpasmā nissareyyuṃ. Yasmā ca kho, bhikkhave, atthi rūpassa nissaraṇaṃ, tasmā sattā rūpasmā nissaranti.
No cedaṃ, bhikkhave, vedanāya …pe… no cedaṃ, bhikkhave, saññāya … no cedaṃ, bhikkhave, saṅkhārānaṃ nissaraṇaṃ abhavissa, nayidaṃ sattā saṅkhārehi nissareyyuṃ. Yasmā ca kho, bhikkhave, atthi saṅkhārānaṃ nissaraṇaṃ, tasmā sattā saṅkhārehi nissaranti. No cedaṃ, bhikkhave, viññāṇassa assādo abhavissa, nayidaṃ sattā viññāṇasmiṃ sārajjeyyuṃ. Yasmā ca kho, bhikkhave, atthi viññāṇassa assādo, tasmā sattā viññāṇasmiṃ sārajjanti. No cedaṃ, bhikkhave, viññāṇassa ādīnavo abhavissa, nayidaṃ sattā viññāṇasmiṃ nibbindeyyuṃ. Yasmā ca kho, bhikkhave, atthi viññāṇassa ādīnavo, tasmā sattā viññāṇasmiṃ nibbindanti. No cedaṃ, bhikkhave, viññāṇassa nissaraṇaṃ abhavissa, nayidaṃ sattā viññāṇasmā nissareyyuṃ. Yasmā ca kho, bhikkhave, atthi viññāṇassa nissaraṇaṃ, tasmā sattā viññāṇasmā nissaranti.
Yāvakīvañca, bhikkhave, sattā imesaṃ pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ assādañca assādato ādīnavañca ādīnavato nissaraṇañca nissaraṇato yathābhūtaṃ nābbhaññaṃsu; neva tāva, bhikkhave, sattā sadevakā lokā samārakā sabrahmakā sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya nissaṭā visaṃyuttā vippamuttā vimariyādīkatena cetasā vihariṃsu.
Yato ca kho, bhikkhave, sattā imesaṃ pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ assādañca assādato ādīnavañca ādīnavato nissaraṇañca nissaraṇato yathābhūtaṃ abbhaññaṃsu; atha, bhikkhave, sattā sadevakā lokā samārakā sabrahmakā sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya nissaṭā visaṃyuttā vippamuttā vimariyādīkatena cetasā viharanti”. Sattamaṃ.