- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Abbot: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Website: chuaphapluan.com
- View Map
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 9.9.2023
BÃI BỂ NƯƠNG DÂU
Kinh Núi Vepulla (Vepullapabbatasuttaṃ)
Tập II – Thiên Nhân Duyên
Chương IV. Tương Ưng Vô Thỉ – Phẩm Thứ Hai (S.ii,190)
Thời gian, thường là nguyên do, khiến chúng sanh bị che khuất những đổi thay, vì quá lâu để nhớ biết. Đức Phật là Phật, nên Ngài biết rõ núi từng là biển, biển từng là núi. Một điều tương đối quen thuộc, trong học thuật ngày nay nhưng thuở xưa là điều không tưởng. Vì Phật là Phật, nên Ngài biết và nói rõ, những sự tăng giảm của tuổi thọ loài người, những thay đổi của nhân danh, địa danh. Phật cũng nói rõ về danh tánh, tộc tánh và những chi tiết về chư Phật quá khứ. Tất cả đều mang chung một ý nghĩa, vạn hữu vốn vô thường. Tất cả cái tốt, cái xấu, cái vô tri rồi sẽ tan biến theo thời gian vô tận. Và tất cả đều nên nhàm chán, xả ly, và giải thoát.
Kinh văn
Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati gijjhakūṭe pabbate. Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘bhikkhavo’’ti. ‘‘Bhadante’’ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca –
Một thuở Đức Thế Tôn trú tại núi Gijjhakūta (Linh Thứu), Rājagaha (Vương Xá),
Tại đấy Đức Thế Tôn gọi các Tỳ Khưu: “Này chư Tỳ Khưu”. Chư Tỳ Khưu trả lời: “Dạ, bạch Đức Thế Tôn”. Rồi Đức Thế Tôn dạy như sau:
‘‘Anamataggoyaṃ, bhikkhave, saṃsāro. Pubbā koṭi na paññāyati avijjānīvaraṇānaṃ sattānaṃ taṇhāsaṃyojanānaṃ sandhāvataṃ saṃsarataṃ. Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, imassa vepullassa pabbatassa ‘pācīnavaṃso’tveva samaññā udapādi. Tena kho pana, bhikkhave, samayena manussānaṃ ‘tivarā’tveva samaññā udapādi. Tivarānaṃ, bhikkhave, manussānaṃ cattārīsa vassasahassāni āyuppamāṇaṃ ahosi. Tivarā, bhikkhave, manussā pācīnavaṃsaṃ pabbataṃ catūhena ārohanti, catūhena orohanti. Tena kho pana, bhikkhave, samayena kakusandho bhagavā arahaṃ sammāsambuddho loke uppanno hoti. Kakusandhassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa vidhurasañjīvaṃ nāma sāvakayugaṃ ahosi aggaṃ bhaddayugaṃ. Passatha, bhikkhave, sā cevimassa pabbatassa samaññā antarahitā, te ca manussā kālaṅkatā, so ca bhagavā parinibbuto. Evaṃ aniccā, bhikkhave, saṅkhārā; evaṃ addhuvā, bhikkhave, saṅkhārā; evaṃ anassāsikā, bhikkhave, saṅkhārā. Yāvañcidaṃ, bhikkhave, alameva sabbasaṅkhāresu nibbindituṃ, alaṃ virajjituṃ, alaṃ vimuccituṃ.
-- Này chư Tỳ Khưu, cuộc trầm luân là vô thủy. Không thể nêu rõ khởi điểm đối với luân hồi sanh tử, đối với chúng sanh bị vô minh bao phủ, ái dục buộc ràng.
-- Này chư Tỳ Khưu, một thời xa xưa, núi Vepulla này, được biết với tên là Pācīnavaṃsa. Bấy giờ, dân chúng xứ này được gọi là Tivāra. Tuổi thọ dân chúng Tivāra đến 40.000 năm. Người Tivāra leo núi Pācīnavaṃsa, mất bốn ngày lên và bốn ngày xuống.
Bấy giờ Đức Thế Tôn Kakusandha, bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời. Hai vị thượng thủ thinh văn của Ngài là Vidhura và Sajīva.
Này chư Tỳ Khưu, hãy nhìn xem, tên của hòn núi không còn. Dân chúng đã mất hết. Đức Thế Tôn đã viên tịch niết bàn. Pháp hữu vi vô thường là thế, bất ổn là thế, bất an là thế. Quá đủ để nhàm chán, quá đủ để buông bỏ, quá đủ để giải thoát khỏi pháp hữu vi.
‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, imassa vepullassa pabbatassa ‘vaṅkako’tveva samaññā udapādi. Tena kho pana, bhikkhave, samayena manussānaṃ ‘rohitassā’tveva samaññā udapādi. Rohitassānaṃ, bhikkhave, manussānaṃ tiṃsavassasahassāni āyuppamāṇaṃ ahosi. Rohitassā, bhikkhave, manussā vaṅkakaṃ pabbataṃ tīhena ārohanti, tīhena orohanti. Tena kho pana, bhikkhave, samayena koṇāgamano bhagavā arahaṃ sammāsambuddho loke uppanno hoti. Koṇāgamanassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa bhiyyosuttaraṃ nāma sāvakayugaṃ ahosi aggaṃ bhaddayugaṃ. Passatha, bhikkhave, sā cevimassa pabbatassa samaññā antarahitā, te ca manussā kālaṅkatā, so ca bhagavā parinibbuto. Evaṃ aniccā, bhikkhave, saṅkhārā...pe... alaṃ vimuccituṃ.
-- Này chư Tỳ Khưu, một thời xa xưa, núi Vepulla này được biết với tên là Vaṅkaka. Bấy giờ, dân chúng xứ này được gọi là Rohitassa. Tuổi thọ dân chúng Rohitassa đến 30.000 năm. Người Rohitassa leo núi Vaṅkaka, mất ba ngày lên và ba ngày xuống.
Bấy giờ Đức Thế Tôn Koṇāgamana , bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời. Hai vị thượng thủ thinh văn của Ngài là Bhīyya và Suttara.
Này chư Tỳ Khưu, hãy nhìn xem, tên của hòn núi không còn. Dân chúng đã mất hết. Đức Thế Tôn đã viên tịch niết bàn. Pháp hữu vi vô thường là thế, bất ổn là thế, bất an là thế. Quá đủ để nhàm chán, quá đủ để buông bỏ, quá đủ để giải thoát khỏi pháp hữu vi.
‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, imassa vepullassa pabbatassa ‘supasso’tveva samaññā udapādi. Tena kho pana, bhikkhave, samayena manussānaṃ ‘suppiyā’tveva samaññā udapādi. Suppiyānaṃ, bhikkhave, manussānaṃ vīsativassasahassāni āyuppamāṇaṃ ahosi. Suppiyā, bhikkhave, manussā supassaṃ pabbataṃ dvīhena ārohanti, dvīhena orohanti. Tena kho pana, bhikkhave, samayena kassapo bhagavā arahaṃ sammāsambuddho loke uppanno hoti. Kassapassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa tissabhāradvājaṃ nāma sāvakayugaṃ ahosi aggaṃ bhaddayugaṃ. Passatha, bhikkhave, sā cevimassa pabbatassa samaññā antarahitā, te ca manussā kālaṅkatā, so ca bhagavā parinibbuto. Evaṃ aniccā, bhikkhave, saṅkhārā; evaṃ addhuvā, bhikkhave, saṅkhārā...pe... alaṃ vimuccituṃ.
-- Này chư Tỳ Khưu, một thời xa xưa, núi Vepulla này được biết với tên là Supassa. Bấy giờ, dân chúng xứ này được gọi là Suppiya. Tuổi thọ dân chúng Suppiya đến 20.000 năm. Người Suppiya leo núi Suppassa, mất hai ngày lên và hai ngày xuống.
Bấy giờ Đức Thế Tôn Kassapa , bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời. Hai vị thượng thủ thinh văn của Ngài là Tissa và Bhāradvāja.
Này chư Tỳ Khưu, hãy nhìn xem, tên của hòn núi không còn. Dân chúng đã mất hết. Đức Thế Tôn đã viên tịch niết bàn. Pháp hữu vi vô thường là thế, bất ổn là thế, bất an là thế. Quá đủ để nhàm chán, quá đủ để buông bỏ, quá đủ để giải thoát khỏi pháp hữu vi.
‘‘Etarahi kho pana, bhikkhave, imassa vepullassa pabbatassa ‘vepullo’tveva samaññā udapādi. Etarahi kho pana, bhikkhave, imesaṃ manussānaṃ ‘māgadhakā’tveva samaññā udapādi. Māgadhakānaṃ, bhikkhave, manussānaṃ appakaṃ āyuppamāṇaṃ parittaṃ lahukaṃ; yo ciraṃ jīvati so vassasataṃ appaṃ vā bhiyyo. Māgadhakā, bhikkhave, manussā vepullaṃ pabbataṃ muhuttena ārohanti muhuttena orohanti. Etarahi kho panāhaṃ, bhikkhave, arahaṃ sammāsambuddho loke uppanno. Mayhaṃ kho pana, bhikkhave, sāriputtamoggallānaṃ nāma sāvakayugaṃ aggaṃ bhaddayugaṃ. Bhavissati, bhikkhave, so samayo yā ayañcevimassa pabbatassa samaññā antaradhāyissati, ime ca manussā kālaṃ karissanti, ahañca parinibbāyissāmi. Evaṃ aniccā, bhikkhave, saṅkhārā; evaṃ addhuvā, bhikkhave, saṅkhārā; evaṃ anassāsikā, bhikkhave, saṅkhārā. Yāvañcidaṃ, bhikkhave, alameva sabbasaṅkhāresu nibbindituṃ, alaṃ virajjituṃ, alaṃ vimuccitu’’nti.
-- Này chư Tỳ Khưu, hiện nay, núi Vepulla này được biết với tên là Vepulla. Bây giờ, dân chúng xứ này được gọi Magadhaka. Tuổi thọ dân chúng Magadhaka ngắn ngủi ít ỏi, nhiều lắm trên dưới một trăm năm. Người Magadhaka leo núi Vepulla, trong vòng một giờ đi lên và một giờ đi xuống.
Hiện tại Như Lai , bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời. Hai vị thượng thủ thinh văn của Ta là Sāriputta và Moggallāna.
Này chư Tỳ Khưu, rồi sẽ đến lúc tên của hòn núi không còn. Dân chúng cũng mất hết. Ta cũng sẽ viên tịch niết bàn. Pháp hữu vi vô thường là thế, bất ổn là thế, bất an là thế. Quá đủ để nhàm chán, quá đủ để buông bỏ, quá đủ để giải thoát khỏi pháp hữu vi.
Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā –
‘‘Pācīnavaṃso tivarānaṃ, rohitassāna vaṅkako;
Suppiyānaṃ supassoti, māgadhānañca vepullo.
‘‘Aniccā vata saṅkhārā, uppādavayadhammino;
Uppajjitvā nirujjhanti, tesaṃ vūpasamo sukho’’ti.
Sau khi Đức Thê Tôn huấn thị như vậy, Đấng Thiện Thệ - Bậc Đạo Sư – nói thêm:
Pācīnavaṃsa,
Với dân Tivāra.
Tên núi Vaṅkaka
Với dân Rohita.
Tên núi Supassa
Với dân Suppiyā.
Tên núi Vepulla
Với dân Magadha.
Chư hành vốn vô thường
Sanh diệt là tự tánh
Có sanh ắt phải diệt
Tịch tịnh là an lạc.
Chú Thích
Vương Xá trong bài kinh này là kinh đô Vương Xá. Không nên nhầm lẫn với thành Vương Xá. Chùa Trúc Lâm toạ lạc ở kinh đô Vương Xá, cách thành Vương Xá không xa. Kinh đô Vương Xá, gần như được bao bọc bởi pháo đài thiên nhiên là rặng núi Magadha. Trong rặng núi này, có ngọn Vepulla nằm ở phía bắc ngọn đồi Linh Thứu. (Linh Thứu chỉ là một ngọn đồi nhỏ trong rặng núi, chứ không phải là ngọn núi lớn)
Sớ giải ghi rằng, từ sau khi Đức Phật Kakusandha viên tịch, có thời gian tuổi thọ nhân loại xuống thấp nhất khoảng 10 tuổi, sau đó tăng trở lại đến mức độ asaṅkheyya, rồi sụt giảm đến 30 ngàn năm, thì Đức Phật Koṇāgamana xuất hiện.
Tỳ khưu Giác Đẳng soạn dịch
10. Vepullapabbatasuttaṃ
143. Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati gijjhakūṭe pabbate. Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘bhikkhavo’’ti. ‘‘Bhadante’’ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca –
‘‘Anamataggoyaṃ, bhikkhave, saṃsāro. Pubbā koṭi na paññāyati avijjānīvaraṇānaṃ sattānaṃ taṇhāsaṃyojanānaṃ sandhāvataṃ saṃsarataṃ. Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, imassa vepullassa pabbatassa ‘pācīnavaṃso’tveva samaññā udapādi. Tena kho pana, bhikkhave, samayena manussānaṃ ‘tivarā’tveva samaññā udapādi. Tivarānaṃ, bhikkhave, manussānaṃ cattārīsa vassasahassāni āyuppamāṇaṃ ahosi. Tivarā, bhikkhave, manussā pācīnavaṃsaṃ pabbataṃ catūhena ārohanti, catūhena orohanti. Tena kho pana, bhikkhave, samayena kakusandho bhagavā arahaṃ sammāsambuddho loke uppanno hoti. Kakusandhassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa vidhurasañjīvaṃ nāma sāvakayugaṃ ahosi aggaṃ bhaddayugaṃ. Passatha, bhikkhave, sā cevimassa pabbatassa samaññā antarahitā, te ca manussā kālaṅkatā, so ca bhagavā parinibbuto. Evaṃ aniccā, bhikkhave, saṅkhārā; evaṃ addhuvā, bhikkhave, saṅkhārā; evaṃ anassāsikā, bhikkhave, saṅkhārā. Yāvañcidaṃ, bhikkhave, alameva sabbasaṅkhāresu nibbindituṃ, alaṃ virajjituṃ, alaṃ vimuccituṃ.
‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, imassa vepullassa pabbatassa ‘vaṅkako’tveva samaññā udapādi. Tena kho pana, bhikkhave, samayena manussānaṃ ‘rohitassā’tveva samaññā udapādi. Rohitassānaṃ, bhikkhave, manussānaṃ tiṃsavassasahassāni āyuppamāṇaṃ ahosi. Rohitassā, bhikkhave, manussā vaṅkakaṃ pabbataṃ tīhena ārohanti, tīhena orohanti. Tena kho pana, bhikkhave, samayena koṇāgamano bhagavā arahaṃ sammāsambuddho loke uppanno hoti. Koṇāgamanassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa bhiyyosuttaraṃ nāma sāvakayugaṃ ahosi aggaṃ bhaddayugaṃ. Passatha, bhikkhave, sā cevimassa pabbatassa samaññā antarahitā, te ca manussā kālaṅkatā, so ca bhagavā parinibbuto. Evaṃ aniccā, bhikkhave, saṅkhārā...pe... alaṃ vimuccituṃ.
‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, imassa vepullassa pabbatassa ‘supasso’tveva [suphassotveva (sī.)] samaññā udapādi. Tena kho pana, bhikkhave, samayena manussānaṃ ‘suppiyā’tveva [appiyātveva (sī.)] samaññā udapādi. Suppiyānaṃ, bhikkhave, manussānaṃ vīsativassasahassāni āyuppamāṇaṃ ahosi. Suppiyā, bhikkhave, manussā supassaṃ pabbataṃ dvīhena ārohanti, dvīhena orohanti. Tena kho pana, bhikkhave, samayena kassapo bhagavā arahaṃ sammāsambuddho loke uppanno hoti. Kassapassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa tissabhāradvājaṃ nāma sāvakayugaṃ ahosi aggaṃ bhaddayugaṃ. Passatha, bhikkhave, sā cevimassa pabbatassa samaññā antarahitā, te ca manussā kālaṅkatā, so ca bhagavā parinibbuto. Evaṃ aniccā, bhikkhave, saṅkhārā; evaṃ addhuvā, bhikkhave, saṅkhārā...pe... alaṃ vimuccituṃ.
‘‘Etarahi kho pana, bhikkhave, imassa vepullassa pabbatassa ‘vepullo’tveva samaññā udapādi. Etarahi kho pana, bhikkhave, imesaṃ manussānaṃ ‘māgadhakā’tveva samaññā udapādi. Māgadhakānaṃ, bhikkhave, manussānaṃ appakaṃ āyuppamāṇaṃ parittaṃ lahukaṃ [lahusaṃ (sī.)]; yo ciraṃ jīvati so vassasataṃ appaṃ vā bhiyyo. Māgadhakā, bhikkhave, manussā vepullaṃ pabbataṃ muhuttena ārohanti muhuttena orohanti. Etarahi kho panāhaṃ, bhikkhave, arahaṃ sammāsambuddho loke uppanno. Mayhaṃ kho pana, bhikkhave, sāriputtamoggallānaṃ nāma sāvakayugaṃ aggaṃ bhaddayugaṃ. Bhavissati, bhikkhave, so samayo yā ayañcevimassa pabbatassa samaññā antaradhāyissati, ime ca manussā kālaṃ karissanti, ahañca parinibbāyissāmi. Evaṃ aniccā, bhikkhave, saṅkhārā; evaṃ addhuvā, bhikkhave, saṅkhārā; evaṃ anassāsikā, bhikkhave, saṅkhārā. Yāvañcidaṃ, bhikkhave, alameva sabbasaṅkhāresu nibbindituṃ, alaṃ virajjituṃ, alaṃ vimuccitu’’nti.
Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā –
‘‘Pācīnavaṃso tivarānaṃ, rohitassāna vaṅkako;
Suppiyānaṃ supassoti, māgadhānañca vepullo.
‘‘Aniccā vata saṅkhārā, uppādavayadhammino;
Uppajjitvā nirujjhanti, tesaṃ vūpasamo sukho’’ti. dasamaṃ;
10. Vepullapabbatasuttavaṇṇanā
143. Dasame bhūtapubbanti atītakāle ekaṃ apadānaṃ āharitvā dasseti. Samaññā udapādīti paññatti ahosi. Catūhena ārohantīti idaṃ thāmamajjhime sandhāya vuttaṃ. Agganti uttamaṃ. Bhaddayuganti sundarayugalaṃ. Tīhena ārohantīti ettāvatā kira dvinnaṃ buddhānaṃ antare yojanaṃ pathavī ussannā, so pabbato tiyojanubbedho jāto.
Appaṃ vā bhiyyoti vassasatato uttariṃ appaṃ dasa vā vīsaṃ vā vassāni. Puna vassasatameva jīvanako nāma natthi, uttamakoṭiyā pana saṭṭhi vā asīti vā vassāni jīvanti. Vassasataṃ pana appatvā pañcavassadasavassādikāle mīyamānāva bahukā. Ettha ca kakusandho bhagavā cattālīsavassasahassāyukakāle, koṇāgamano tiṃsavassasahassāyukakāle nibbattoti idaṃ anupubbena parihīnasadisaṃ kataṃ, na pana evaṃ parihīnaṃ, vaḍḍhitvā vaḍḍhitvā parihīnanti veditabbaṃ. Kathaṃ? Kakusandho tāva bhagavā imasmiṃyeva kappe cattālīsavassasahassāyukakāle nibbatto āyuppamāṇaṃ pañca koṭṭhāse katvā cattāro ṭhatvā pañcame vijjamāneyeva parinibbuto. Taṃ āyu parihāyamānaṃ dasavassakālaṃ patvā puna vaḍḍhamānaṃ asaṅkheyyaṃ hutvā tato parihāyamānaṃ tiṃsavassasahassāyukakāle ṭhitaṃ, tadā koṇāgamano nibbatto. Tasmimpi tatheva parinibbute taṃ āyu dasavassakālaṃ patvā puna vaḍḍhamānaṃ asaṅkheyyaṃ hutvā parihāyitvā vīsavassasahassakāle ṭhitaṃ, tadā kassapo bhagavā nibbatto. Tasmimpi tatheva parinibbute taṃ āyu dasavassakālaṃ patvā puna vaḍḍhamānaṃ asaṅkheyyaṃ hutvā parihāyitvā vassasatakālaṃ pattaṃ, atha amhākaṃ sammāsambuddho nibbatto. Evaṃ anupubbena parihāyitvā vaḍḍhitvā vaḍḍhitvā parihīnanti veditabbaṃ. Tattha ca yaṃ āyuparimāṇesu mandesu buddhā nibbattanti, tesampi tadeva āyuparimāṇaṃ hotīti. Dasamaṃ.