Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || ẢO TƯỞNG CHIẾM HỮU - Kinh Không Thuộc Của Ta (Anattaniyasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || ẢO TƯỞNG CHIẾM HỮU - Kinh Không Thuộc Của Ta (Anattaniyasuttaṃ)

Sunday, 16/06/2024, 17:08 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 15.6.2024

ẢO TƯỞNG CHIẾM HỮU

Kinh Không Thuộc Của Ta (Anattaniyasuttaṃ)

Tập III – Uẩn

Chương I. Tương Ưng Uẩn-Phần II-Phẩm A-La-Hán (S,iii,69)

Ý niệm “cái này là của ta” theo Phật Pháp thuộc ái chấp. Đây là nguyên nhân sanh khổ. Sự thật thì vạn pháp hữu vi có riêng tự tánh sanh diệt. Cái gọi là của ta chỉ là quy ước nhất thời, như chỗ ngồi trên xe bus hay “quán trọ qua đêm”. Đối với ngoại giới là vậy mà đối với nội giới cũng thế. Sẳc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn trong nhận thức của hành giả thì không thể “bảo phải như thế này, đừng như thế kia”. Bởi vì chủ quyền đối với năm uẩn trong ý nghĩa đệ nhất nghĩa đế, thì không nằm trong chủ quyền nào. Nói đơn giản sự chấp thủ ngã sở chỉ là ảo tưởng chiếm hữu.

Kinh văn

Sāvatthinidānaṃ.

Atha kho aññataro bhikkhu …pe… ekamantaṃ nisinno kho so bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca: “sādhu me, bhante, bhagavā saṅkhittena dhammaṃ desetu …pe… vihareyyan”ti.

Nhân duyên ở Sāvatthi.

Bấy giờ có một vị tỳ khưu đi đến đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Vì tỳ khưu ấy bạch rằng:

—Bạch Đức Thế Tôn, tốt lành thay Đức Thế Tôn thuyết pháp cô đọng súc tích cho con! Sau khi nghe thuyết pháp, con sẽ sống một mình, tịnh cư, nhiệt tâm, tinh cần, không xao lãng.

“Yaṃ kho, bhikkhu, anattaniyaṃ; tatra te chando pahātabbo”ti.

“Aññātaṃ, bhagavā, aññātaṃ, sugatā”ti.

—Này Tỳ khưu, hãy đoạn trừ ước muốn với những gì không thuộc của ta.

—Bạch Đức Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã hiểu.

“Yathā kathaṃ pana tvaṃ, bhikkhu, mayā saṅkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ ājānāsī”ti?

“Rūpaṃ kho, bhante, anattaniyaṃ; tatra me chando pahātabbo.

Vedanā …

saññā …

saṅkhārā …

viññāṇaṃ anattaniyaṃ; tatra me chando pahātabbo.

Imassa khvāhaṃ, bhante, bhagavatā saṅkhittena bhāsitassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāmī”ti.

—Này Tỳ khưu, Thầy hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi điều Ta nói một cách ngắn gọn như thế nào?

—Bạch Đức Thế Tôn, sắc là không thuộc của ta, con cần đoạn trừ ước muốn đối với (sắc); thọ là không thuộc của ta, con cần đoạn trừ ước muốn đối với (thọ); tưởng là không thuộc của ta, con cần đoạn trừ ước muốn đối với (tưởng); hành là không thuộc của ta, con cần đoạn trừ ước muốn đối với (hành); thức là không thuộc của ta, con cần đoạn trừ ước muốn đối với (thức).

“Sādhu sādhu, bhikkhu. Sādhu kho tvaṃ, bhikkhu, mayā saṅkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ ājānāsi.

Rūpaṃ kho, bhikkhu, anattaniyaṃ; tatra te chando pahātabbo.

Vedanā …

saññā …

saṅkhārā …

viññāṇaṃ anattaniyaṃ; tatra te chando pahātabbo.

—Tốt lắm, tốt lắm, này Tỳ khưu với lời nói cô đọng của Ta, Thầy đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi. Sắc là không thuộc của ta, con cần đoạn trừ ước muốn đối với (sắc); thọ là không thuộc của ta, con cần đoạn trừ ước muốn đối với (thọ); tưởng là không thuộc của ta, con cần đoạn trừ ước muốn đối với (tưởng); hành là không thuộc của ta, con cần đoạn trừ ước muốn đối với (hành); thức là không thuộc của ta, con cần đoạn trừ ước muốn đối với (thức).

Imassa kho, bhikkhu, mayā saṅkhittena bhāsitassa evaṃ vitthārena attho daṭṭhabbo”ti …pe…

aññataro ca pana so bhikkhu arahataṃ ahosīti.

Rồi vị tỳ khưu ấy, sau khi hoan hỷ tín thọ lời dạy của Đức Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, thân phía phải hướng về Ngài rồi ra đi.

Và vị tỳ khưu ấy sống một mình, tịnh cư, nhiệt tâm, tinh cần, không xao lãng, không bao lâu chứng được mục đích mà một thiện gia nam tử chân chánh xuất gia, từ bỏ thế tục, sống không gia đình hướng đến là vô thượng cứu cánh phạm hạnh. Vị ấy ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.

Vị tỳ khưu ấy đã trở thành một trong những vị vô sanh ứng cúng.

 

 

Chú Thích

Chữ “anattaniyaṃ” có nghĩa là không thuộc của mình. Bản dịch của Hoà thượng Minh Châu là “không thuộc tự ngã". Bản dịch này lấy theo ý nghĩa của “ái chấp với quan niệm “đây là của ta””, hay ngã sở: Câu “không thuộc tự ngã” có thể bị ngộ nhận là ngoài năm uẩn còn có tự ngã.

Ý nghĩa của bài kinh này có thể tham khảo thêm bài kinh “buồn chi chiếc lá sân chùa”, mà trong đó, Đức Phật hỏi chư tỳ khưu: có buồn khi người ta hốt lá trong sân chùa Kỳ Viên đem đốt hay đổ xuống hố rác.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.