- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Abbot: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Website: chuaphapluan.com
- View Map
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 10.1.2024
ANH HÙNG BIẾT ANH HÙNG
Kinh Thùng Muối (Ghaṭasuttaṃ)
Tập II – Thiên Nhân Duyên
Chương X. Tương Tỷ Kheo (S.ii,275)
Nhị vị Tôn giả Sāriputta và Tôn giả Moggallāna, là hai bậc cao đệ tối thượng trong hàng đệ tử Phật. Ngoài sự thân thiết từ thời niên thiếu, hai vị còn là tri kỷ. Cả hai đều có sở đắc, sở chứng trác việt. Và đều quý kính nhau. Biết được cảnh giới cao vợi của người khác, cần một tâm hồn và trí tuệ tương đồng. Chỉ có anh hùng mới thật sự rõ biết anh hùng. Không là a la hán khó đo đạt cảnh giới của các bậc vô sanh ứng cúng.
Kinh văn
Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena āyasmā ca sāriputto āyasmā ca mahāmoggallāno rājagahe viharanti veḷuvane kalandakanivāpe ekavihāre. Atha kho āyasmā sāriputto sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yenāyasmā mahāmoggallāno tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā mahāmoggallānena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā sāriputto āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ etadavoca –
Tôi dược nghe như vầy,
Một thuở Đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ Viên), ngôi già lam do ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc) dâng cúng.
Bấy giờ, Tôn giả Sāriputta và Tôn giả Moggallāna cùng ở Rājagaha (Vương Xá), chung tịnh xá Veluvana (Trúc Lâm), khu vực Kalandakanivāpa (chỗ cho sóc ăn).
Rồi Tôn giả Sāriputta, từ chỗ độc cư thiền tịnh đứng dậy đi đến Tôn giả Mahā Moggallāna. Sau những lời thăm hỏi thân thiện, Tôn giả Sāriputta ngồi xuống một bên và nói với Tôn giả Mahā Moggallāna:
‘‘Vippasannāni kho te, āvuso moggallāna, indriyāni; parisuddho mukhavaṇṇo pariyodāto santena nūnāyasmā mahāmoggallāno ajja vihārena vihāsī’’ti. ‘‘Oḷārikena khvāhaṃ, āvuso, ajja vihārena vihāsiṃ. Api ca, me ahosi dhammī kathā’’ti. ‘‘Kena saddhiṃ panāyasmato mahāmoggallānassa ahosi dhammī kathā’’ti? ‘‘Bhagavatā kho me, āvuso, saddhiṃ ahosi dhammī kathā’’ti. ‘‘Dūre kho, āvuso, bhagavā etarahi sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Kiṃ nu kho, āyasmā, mahāmoggallāno bhagavantaṃ iddhiyā upasaṅkami; udāhu bhagavā āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ iddhiyā upasaṅkamī’’ti? ‘‘Na khvāhaṃ, āvuso, bhagavantaṃ iddhiyā upasaṅkamiṃ; napi maṃ bhagavā iddhiyā upasaṅkami. Api ca, me yāvatā bhagavā ettāvatā dibbacakkhu visujjhi dibbā ca sotadhātu. Bhagavatopi yāvatāhaṃ ettāvatā dibbacakkhu visujjhi dibbā ca sotadhātū’’ti. ‘‘Yathākathaṃ panāyasmato mahāmoggallānassa bhagavatā saddhiṃ ahosi dhammī kathā’’ti?
-- Này Hiền giả Moggallāna, các căn của Hiền giả thật là an tịnh; thần thái trong sáng. Có phải hôm nay Hiền giả an trú với sự an trú tịnh lạc?
-- Thưa Hiền giả, hôm nay tôi an trú với sự thiền cảnh thô thiển. Tôi có được một cuộc pháp đàm.
-- Hiền giả Mahā Moggallāna có được pháp đàm với ai?
-- Thưa Hiền giả, tôi có một cuộc pháp đàm với Đức Thế Tôn.
-- Này Hiền giả, Đức Thế Tôn đang ở xa, ngự tại Sāvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ Viên), ngôi già lam do ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Có phải Tôn giả Mahā Moggallāna đi đến Thế Tôn bằng thần thông hay Thế Tôn đi đến Tôn giả Mahā Moggallāna bằng thần thông?
-- Thưa Hiền giả, tôi không đi đến Thế Tôn bằng thần thông. Và Thế Tôn cũng không đi đến tôi bằng thần thông. Đức Thế Tôn dùng thiên nhãn, thiên nghĩ truyền đạt với tôi. Và tôi cũng dùng thiên nhãn, thiên nghĩ truyền đạt với Đức Thế Tôn.
-- Pháp đàm về đề tài gì giữa Đức Thế Tôn với Tôn giả Mahā Moggallāna ?
‘‘Idhāhaṃ, āvuso, bhagavantaṃ etadavocaṃ – ‘āraddhavīriyo āraddhavīriyoti, bhante, vuccati. Kittāvatā nu kho, bhante, āraddhavīriyo hotī’ti? Evaṃ vutte, maṃ, āvuso, bhagavā etadavoca – ‘idha, moggallāna, bhikkhu āraddhavīriyo viharati – kāmaṃ taco ca nhāru ca aṭṭhī ca avasissatu, sarīre upasussatu maṃsalohitaṃ, yaṃ taṃ purisathāmena purisavīriyena purisaparakkamena pattabbaṃ na taṃ apāpuṇitvā vīriyassa saṇṭhānaṃ bhavissatīti. Evaṃ kho, moggallāna, āraddhavīriyo hotī’ti. Evaṃ kho me, āvuso, bhagavatā saddhiṃ ahosi dhammī kathā’’ti.
-- Thưa Hiền giả, tôi bạch với Đúc Thế Tôn:
"-- Bạch Thế Tôn ở đây người thế nào là hạ thủ công phu? Bạch Thế Tôn người thế nào là hạ thủ công phu?
Thưa Hiền giả, khi được nói vậy, Đức Thế Tôn nói với tôi:
"-- Này Moggallāna ở đây hành giả với quyết tâm: ‘Dầu cho da, gân và xương có khô cằn. Dù thịt và máu cạn kiệt trên thân, tôi sẽ không bao giờ ngơi nghỉ khi chưa chứng đạt được những gì cần chứng đạt với sức mạnh, với nghị lực, với quyết chí”. Như vậy là hạ thủ công phu”
Này Hiền giả, đó là pháp đàm giữa Đức Thế Tôn và tôi.
‘‘Seyyathāpi, āvuso, himavato pabbatarājassa parittā pāsāṇasakkharā yāvadeva upanikkhepanamattāya; evameva kho mayaṃ āyasmato mahāmoggallānassa yāvadeva upanikkhepanamattāya. Āyasmā hi mahāmoggallāno mahiddhiko mahānubhāvo ākaṅkhamāno kappaṃ tiṭṭheyyā’’ti.
--Này Hiền giả, ví như một đống sạn so với Hy mã lạp sơn, vua các loài núi, thần thông của chúng tôi so với tôn giả cũng như vậy. Tôn giả với đại thần thông, đại uy lực có thể sống đến trọn đại kiếp nếu muốn.
‘‘Seyyathāpi, āvuso, mahatiyā loṇaghaṭāya parittā loṇasakkharāya yāvadeva upanikkhepanamattāya; evameva kho mayaṃ āyasmato sāriputtassa yāvadeva upanikkhepanamattāya. Āyasmā hi sāriputto bhagavatā anekapariyāyena thomito vaṇṇito pasattho – ‘‘Sāriputtova paññāya, sīlena upasamena ca; Yopi pāraṅgato bhikkhu, etāvaparamo siyā’’ti
--Này Hiền giả, ví như vài hạt muối đem so với một thùng muối lớn, chúng tôi so sánh với Tôn giả, một bậc được Đức Thế Tôn tán thán, khen ngợi, tôn vinh: Sāriputta là bậc thượng trí, phẩm hạnh cao quý, sống an tịnh. Bất cứ tỳ khưu nào nỗ lực tới đâu cũng không vượt qua được.
Itiha te ubho mahānāgā aññamaññassa subhāsitaṃ sulapitaṃ samanumodiṃsūti
Hai bậc Long Tượng ấy cùng hoan hỷ, cùng tán thán cách khéo nói, khéo diễn đạt.
Chú Thích
Chữ ghaṭa có nghĩa là cái ghè, thùng đựng, ở đây nói về thùng đựng muối trong lời tán thán đối với Tôn giả Sāriputta, nên dịch là Kinh Thùng Muối cho dễ hiểu.
Theo Sớ Giải thì thiền cảnh thô thiển (oḷārikena) ở đây chỉ cho thần thông hiển hoá từ tứ thiền sắc giới so với thiền vô sắc hay diệt thọ tưởng định thì không tế nhị hơn được.
Theo Sớ giải thì một thọ kiếp āyukappa ở đây là 120 tuổi, tuổi thọ dài đối với nhân loại hiện nay.
Bậc long tượng (nāga) chỉ cho chư vị a la hán. (Khác với cách nói xưng tán ngày nay)
Tỳ khưu Giác Đẳng soạn dịch
3. Ghaṭasuttaṃ
237. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena āyasmā ca sāriputto āyasmā ca mahāmoggallāno rājagahe viharanti veḷuvane kalandakanivāpe ekavihāre. Atha kho āyasmā sāriputto sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yenāyasmā mahāmoggallāno tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā mahāmoggallānena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā sāriputto āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ etadavoca –
‘‘Vippasannāni kho te, āvuso moggallāna, indriyāni; parisuddho mukhavaṇṇo pariyodāto santena nūnāyasmā mahāmoggallāno ajja vihārena vihāsī’’ti. ‘‘Oḷārikena khvāhaṃ, āvuso, ajja vihārena vihāsiṃ. Api ca, me ahosi dhammī kathā’’ti. ‘‘Kena saddhiṃ panāyasmato mahāmoggallānassa ahosi dhammī kathā’’ti? ‘‘Bhagavatā kho me, āvuso, saddhiṃ ahosi dhammī kathā’’ti. ‘‘Dūre kho, āvuso, bhagavā etarahi sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Kiṃ nu kho, āyasmā, mahāmoggallāno bhagavantaṃ iddhiyā upasaṅkami; udāhu bhagavā āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ iddhiyā upasaṅkamī’’ti? ‘‘Na khvāhaṃ, āvuso, bhagavantaṃ iddhiyā upasaṅkamiṃ; napi maṃ bhagavā iddhiyā upasaṅkami. Api ca, me yāvatā bhagavā ettāvatā dibbacakkhu visujjhi dibbā ca sotadhātu. Bhagavatopi yāvatāhaṃ ettāvatā dibbacakkhu visujjhi dibbā ca sotadhātū’’ti. ‘‘Yathākathaṃ panāyasmato mahāmoggallānassa bhagavatā saddhiṃ ahosi dhammī kathā’’ti?
‘‘Idhāhaṃ, āvuso, bhagavantaṃ etadavocaṃ – ‘āraddhavīriyo āraddhavīriyoti, bhante, vuccati. Kittāvatā nu kho, bhante, āraddhavīriyo hotī’ti? Evaṃ vutte, maṃ, āvuso, bhagavā etadavoca – ‘idha, moggallāna, bhikkhu āraddhavīriyo viharati – kāmaṃ taco ca nhāru ca aṭṭhī ca avasissatu, sarīre upasussatu maṃsalohitaṃ, yaṃ taṃ purisathāmena purisavīriyena purisaparakkamena pattabbaṃ na taṃ apāpuṇitvā vīriyassa saṇṭhānaṃ bhavissatīti. Evaṃ kho, moggallāna, āraddhavīriyo hotī’ti. Evaṃ kho me, āvuso, bhagavatā saddhiṃ ahosi dhammī kathā’’ti.
‘‘Seyyathāpi, āvuso, himavato pabbatarājassa parittā pāsāṇasakkharā yāvadeva upanikkhepanamattāya; evameva kho mayaṃ āyasmato mahāmoggallānassa yāvadeva upanikkhepanamattāya. Āyasmā hi mahāmoggallāno mahiddhiko mahānubhāvo ākaṅkhamāno kappaṃ tiṭṭheyyā’’ti.
‘‘Seyyathāpi, āvuso, mahatiyā loṇaghaṭāya parittā loṇasakkharāya yāvadeva upanikkhepanamattāya; evameva kho mayaṃ āyasmato sāriputtassa yāvadeva upanikkhepanamattāya. Āyasmā hi sāriputto bhagavatā anekapariyāyena thomito vaṇṇito pasattho –
‘‘Sāriputtova paññāya, sīlena upasamena ca;
Yopi pāraṅgato bhikkhu, etāvaparamo siyā’’ti.
Itiha te ubho mahānāgā aññamaññassa subhāsitaṃ sulapitaṃ samanumodiṃsūti. Tatiyaṃ
3. Ghaṭasuttavaṇṇanā
237. Tatiye ekavihāreti ekasmiṃ gabbhe. Tadā kira bahū āgantukā bhikkhū sannipatiṃsu. Tasmiṃ pariveṇaggena vā vihāraggena vā senāsanesu apāpuṇantesu dvinnaṃ therānaṃ eko gabbho sampatto. Te divā pāṭiyekkesu ṭhānesu nisīdanti, rattiṃ pana nesaṃ antare cīvarasāṇiṃ pasārenti. Te attano attano pattapattaṭṭhāneyeva nisīdanti. Tena vuttaṃ ‘‘ekavihāre’’ti. Oḷārikenāti idaṃ oḷārikārammaṇataṃ sandhāya vuttaṃ. Dibbacakkhudibbasotadhātuvihārena hi so vihāsi, tesañca rūpāyatanasaddāyatanasaṅkhātaṃ oḷārikaṃ ārammaṇaṃ. Iti dibbacakkhunā rūpassa diṭṭhattā dibbāya ca sotadhātuyā saddassa sutattā so vihāro oḷāriko nāma jāto. Dibbacakkhu visujjhīti bhagavato rūpadassanatthāya visuddhaṃ ahosi. Dibbā ca sotadhātūti sāpi bhagavato saddasuṇanatthaṃ visujjhi. Bhagavatopi therassa rūpadassanatthañceva saddasuṇanatthañca tadubhayaṃ visujjhi. Tadā kira thero ‘‘kathaṃ nu kho etarahi satthā viharatī’’ti ālokaṃ vaḍḍhetvā dibbena cakkhunā satthāraṃ jetavane vihāre gandhakuṭiyaṃ nisinnaṃ disvā tassa dibbāya sotadhātuyā saddaṃ suṇi. Satthāpi tatheva akāsi.
Evaṃ te aññamaññaṃ passiṃsu ceva, saddañca assosuṃ.
Āraddhavīriyoti paripuṇṇavīriyo paggahitavīriyo. Yāvadeva upanikkhepanamattāyāti tiyojanasahassavitthārassa himavato santike ṭhapitā sāsapamattā pāsāṇasakkharā ‘‘himavā nu kho mahā, ayaṃ nu kho pāsāṇasakkharā’’ti evaṃ yāva upanikkhepanamattasseva atthāya bhaveyyāti vuttaṃ hoti. Paratopi eseva nayo. Kappanti āyukappaṃ. Loṇaghaṭāyāti cakkavāḷamukhavaṭṭiyā ādhārakaṃ katvā mukhavaṭṭiyā brahmalokaṃ āhacca ṭhitāya loṇacāṭiyāti dasseti. Ime pana therā upamaṃ āharantā sarikkhakeneva ca vijjamānaguṇena ca āhariṃsu. Kathaṃ? Ayañhi iddhi nāma accuggataṭṭhena ceva vipulaṭṭhena ca himavantasadisā, paññā catubhūmakadhamme anupavisitvā ṭhitaṭṭhena sabbabyañjanesu anupaviṭṭhaloṇarasasadisā. Evaṃ tāva sarikkhakaṭṭhena āhariṃsu. Samādhilakkhaṇaṃ pana mahāmoggallānattherassa vibhūtaṃ pākaṭaṃ. Kiñcāpi sāriputtattherassa avijjamānaiddhi nāma natthi, bhagavatā pana ‘‘etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ iddhimantānaṃ yadidaṃ mahāmoggallāno’’ti ayameva etadagge ṭhapito. Vipassanālakkhaṇaṃ pana sāriputtattherassa vibhūtaṃ pākaṭaṃ. Kiñcāpi mahāmoggallānattherassāpi paññā atthi, bhagavatā pana ‘‘etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ mahāpaññānaṃ yadidaṃ sāriputto’’ti (a. ni. 1.189) ayameva etadagge ṭhapito. Tasmā yathā ete aññamaññassa dhuraṃ na pāpuṇanti, evaṃ vijjamānaguṇena āhariṃsu. Samādhilakkhaṇasmiñhi mahāmoggallāno nipphattiṃ gato, vipassanālakkhaṇe sāriputtatthero, dvīsupi etesu sammāsambuddhoti. Tatiyaṃ.