Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ | ĂN MIẾNG TRẢ MIẾNG KHÔNG PHẢI LÀ CÁCH - Kinh Không Giận Dữ (Akkodhasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ | ĂN MIẾNG TRẢ MIẾNG KHÔNG PHẢI LÀ CÁCH - Kinh Không Giận Dữ (Akkodhasuttaṃ)

Wednesday, 04/01/2023, 18:11 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 4.1.2022


ĂN MIẾNG TRẢ MIẾNG KHÔNG PHẢI LÀ CÁCH

Kinh Không Giận Dữ (Akkodhasuttaṃ)

CHƯƠNG XI. TƯƠNG ƯNG SAKKA - PHẨM THỨ BA (S. i, 240)

Trong cái nhìn thường tình thì trong sự thịnh nộ phản ứng bằng cách “hòn đất ném đi hòn chì ném lại” là hợp lý và khôn ngoan. Đối với người có tu tập thì thể hiện lòng từ bi trong mọi hoàn cảnh là thượng sách. Nhất thời người hoà ái có vẻ thất thế nhưng lâu dài chính người nóng giận là người tự gây hại cho bản thân. Sự thịnh nộ thường khiến người ta mất kiểm soát. Mất tự chủ không bao giờ là sự khôn ngoan đúng nghĩa.

Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tatra kho bhagavā bhikkhū...pe... bhagavā etadavoca – ‘‘bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sakko devānamindo sudhammāyaṃ sabhāyaṃ deve tāvatiṃse anunayamāno tāyaṃ velāyaṃ imaṃ gāthaṃ abhāsi –

Tôi được nghe như vầy,

Một thuở Đức Thế Tôn ngự tại Jetavana (Kỳ Viên), Sāvatthi (Xá Vệ).

Tại đây Đức Thế Tôn gọi chư tỳ khưu dạy rằng:

Này chư Tỳ khưu, thuở trước Thiên chủ Sakka, khi huấn thị chư Thiên ở Tam thập tam thiên tại hội trường Sudhamma, đã nói kệ ngôn:

‘‘Mā vo kodho ajjhabhavi, mā ca kujjhittha kujjhataṃ;

Akkodho avihiṃsā ca, ariyesu ca paṭipadā;

Atha pāpajanaṃ kodho, pabbatovābhimaddatī’’ti.

“Đừng để phẫn nộ chế ngự

Chớ nóng giận với người nóng

Sự hoà dịu và vô hại

Luôn thể hiện ở bậc thánh

Phẫn nộ nghiền nát kẻ ác

Như núi đá lở đè bẹp.

Mā vo kodho ajjhabhavi = đừng để phẫn nộ chế ngự

mā ca kujjhittha kujjhataṃ = chớ giận dữ đối với người giận dữ

Akkodho avihiṃsā ca = sự hoà ái và vô hại

ariyesu ca paṭipadā = thể hiện ở các bậc thánh

Atha pāpajanaṃ kodho = sự giận dữ nghiền nát kẻ sai quấy

pabbatovābhimaddatī’’ti = như núi đá đè bẹp

Theo Sớ giải chữ akkodha – không giận dữ hay không phẫn nộ – trong bài kinh nầy đồng nghĩa với tâm từ mẫn (akkodhoti mettā ca mettāpubbabhāgo ca) hay sự hoà ái.

Cũng theo Sớ giải chữ avihiṃsā – vô hại, bất hại – chỉ cho tâm bi mẫn (avihiṃsāti karuṇā ca karuṇāpubbabhāgo ca) hay lòng trắc ẩn đối với sự khổ đau.

Trong văn học Phạm ngữ, và cũng đối với Phật học, thì những thuật ngữ theo cách phủ định như vô tham, vô sân, vô si… không đơn giản chỉ là sự vắng mặt của trạng thái nào đó thí dụ vô tham không chỉ là không tham mà còn là buông xả, vô sân không chỉ là không sân mà còn là từ ái, vô si không chỉ là không mê muội mà là trí tuệ sáng suốt.

Bài kinh nầy cho thấy giận dữ không đơn giản là sự mất kiểm soát nhất thời mà còn cho thấy biểu hiện thiếu trau giồi hai đức tánh từ mẫn và bi mẫn. Nói cách khác nếu lòng từ (mong muôn loài được vui) và tâm bi (mong muôn loài thoát khổ) thường huân tập thì sẽ giảm thiểu sự phẫn nộ.

Tỳ khưu Giác Đẳng soạn dịch

5. Akkodhasuttaṃ [Mūla]

271. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tatra kho bhagavā bhikkhū...pe... bhagavā etadavoca – ‘‘bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sakko devānamindo sudhammāyaṃ sabhāyaṃ deve tāvatiṃse anunayamāno tāyaṃ velāyaṃ imaṃ gāthaṃ abhāsi –

‘‘Mā vo kodho ajjhabhavi, mā ca kujjhittha kujjhataṃ;

Akkodho avihiṃsā ca, ariyesu ca paṭipadā [vasatī sadā (sī. syā. kaṃ. pī.)];

Atha pāpajanaṃ kodho, pabbatovābhimaddatī’’ti.

5. Akkodhasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

271. Pañcame mā vo kodho ajjhabhavīti kodho tumhe mā abhibhavi, tumheva kodhaṃ abhibhavatha. Mā ca kujjhittha kujjhitanti kujjhantānaṃ mā paṭikujjhittha. Akkodhoti mettā ca mettāpubbabhāgo ca. Avihiṃsāti karuṇā ca karuṇāpubbabhāgo ca. Atha pāpajanaṃ kodho, pabbatovābhimaddatīti lāmakajanaṃ pabbato viya kodho abhimaddatīti. Pañcamaṃ.