BỆNH PHẢI CHỮA TỪ GỐC _ Kinh Chúng Không Phải (Nasantisuttaṃ) _ CHƯƠNG I. TƯƠNG ƯNG CHƯ THIÊN, PHẨM QUẦN TIÊN (S.i,22) _ Giáo trình TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA _ Bài học ngày 19.6.2021

BỆNH PHẢI CHỮA TỪ GỐC _ Kinh Chúng Không Phải (Nasantisuttaṃ) _ CHƯƠNG I. TƯƠNG ƯNG CHƯ THIÊN, PHẨM QUẦN TIÊN (S.i,22) _ Giáo trình TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA _ Bài học ngày 19.6.2021

, 19/06/2021, 16:37 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Giáo trình TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 19.6.2021


BỆNH PHẢI CHỮA TỪ GỐC

Kinh Chúng Không Phải (Nasantisuttaṃ)

CHƯƠNG I. TƯƠNG ƯNG CHƯ THIÊN, PHẨM QUẦN TIÊN (S.i,22)

Với người thật tâm tu tập đôi khi nghĩ rằng phiền não sanh ra do cảnh, đặc biệt là cảnh khả ái, khả ý. Đức Phật dạy rằng hiểu như thế là chưa đủ. Cảnh khả ái, khả ý muôn thuở vẫn vậy. Điểm chính là biết nhìn và thấy được dục niệm khởi từ trong tâm và có khả năng hoá giải sự phát tán của dục niệm.

Ekaṃ samayaṃ Bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

1) Một thời Thế Tôn trú ở Sāvatthī (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc).

Atha kho sambahulā satullapakāyikā devatāyo abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena Bhagavā tenupasaṅkamiṃsu upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu.

2) Rồi rất nhiều quần tiên Satullapa, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.

Ekamantaṃ ṭhitā kho ekā devatā bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi :

3) Ðứng một bên, một vị Thiên nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:

''Na santi kāmā manujesu niccā,

Santīdha kamanīyāni yesu [kāmesu (ka.)] baddho.

Yesu pamatto apunāgamanaṃ,

Anāgantā puriso maccudheyyāti..

''Chandajaṃ aghaṃ chandajaṃ dukkhaṃ.

Chandavinayā aghavinayo.

Aghavinayā dukkhavinayoti..

''Na te kāmā yāni citrāni loke,

Saṅkapparāgo purisassa kāmo.

Tiṭṭhanti citrāni tatheva loke,

Athettha dhīrā vinayanti chandaṃ..

''Kodhaṃ jahe vippajaheyya mānaṃ,

Saṃyojanaṃ sabbamatikkameyya.

Taṃ nāmarūpasmimasajjamānaṃ,

Akiñcanaṃ nānupatanti dukkhā..

''Pahāsi saṅkhaṃ na vimānamajjhagā,

Acchecchi taṇhaṃ idha nāmarūpe.

Taṃ chinnaganthaṃ anighaṃ nirāsaṃ,

Pariyesamānā nājjhagamuṃ.

Devā manussā idha vā huraṃ vā,

Saggesu vā sabbanivesanesūti..

Giữa loài Người chúng ta,

Có các dục vô thường.

Ai hưởng chúng ở đời,

Bị chúng trói, chúng buộc.

Phóng dật đối với chúng,

Khó thoát ly với chúng,

Người nào khó thoát ly,

Bị thần chết chinh phục.

Họa từ dục vọng sanh,

Khổ từ dục vọng khởi,

Dục vọng được nhiếp phục,

Nhờ vậy họa nhiếp phục,

Tai họa được nhiếp phục,

Nhờ vậy khổ nhiếp phục.

Vật sai biệt ở đời,

Chúng không phải các dục,

Chính tư niệm tham ái,

Là dục vọng con người.

Vật sai biệt tồn tại,

Như vậy ở trên đời,

Do vậy bậc Hiền trí,

Ðiều phục các dục vọng.

Hãy từ bỏ phẫn nộ,

Hãy nhiếp phục kiêu mạn,

Hãy vượt qua tất cả,

Mọi kiết sử trói buộc.

Chớ có quá chấp trước,

Ðối với danh sắc ấy,

Khổ không thể đến được,

Với ai không có gì.

Hãy từ bỏ tính toán,

Không chạy theo hư tưởng,

Cắt đứt mọi tham ái,

Với danh sắc ở đời.

Vị ấy đoạn phiền trược,

Không lo âu, không ái;

Chư Thiên và loài Người,

Ðời này hay đời sau,

Ở cảnh giới chư Thiên,

Hay tại mọi trú xứ,

Tìm cầu nhưng không gặp,

Vết tích của vị ấy,

Họ tìm nhưng không thấy,

Vị giải thoát như vậy.

Bản hiệu đính

[một thiên nhân]

Giữa loài người không có

Thứ dục lạc trường cữu

Chỉ có điều khả ái

Khi người bị dính mắc

Với cuộc sống buông thả

Trong cảnh giới tử thần

Không đạt được trạng thái

“không trở lui nầy nữa”.

[thiên nhân khác]

Ham muốn sanh phiền muộn

Ham muốn sanh khổ đau

Không ham muốn, vô phiền

Không ham muốn, hết khổ.

[Thế Tôn]

Dục vọng do dục niệm

Không từ điều khả ái

Bậc trí đoạn dục niệm

Cảnh khả ái tồn tại

Luôn có mặt ở đời.

Hãy từ bỏ phẫn nộ

Hày nhiếp phục kiêu mạn

Hãy vượt thắng trói buộc

Không chấp trước danh sắc

Thời không có khổ đau.

Đã bỏ những toan tính

Không chạy theo hư vọng

Đoạn ái chấp danh sắc

Dù chư thiên, nhân loại

Tìm vị ấy mọi nơi

Đời nầy hay đời sau

Thiên giới, mọi cảnh giới

Cũng không thể tìm thấy

Bậc vô tích, giải thoát.

''Taṃ ce hi nāddakkhuṃ tathāvimuttaṃ (iccāyasmā mogharājā),

Devā manussā idha vā huraṃ vā.

Naruttamaṃ atthacaraṃ narānaṃ,

Ye taṃ namassanti pasaṃsiyā teti..

(Tôn giả Mogharājā nói như vầy)

Chư Thiên và loài Người,

Ðời này hay đời sau,

Bậc tối thượng loài Người,

Lo hạnh phúc chúng sanh,

Họ đảnh lễ vị ấy,

Nên tán thán họ không?

Bản hiệu đính

(Tôn giả Mogharājā )

Nếu chư thiên, nhân loại

Không thể tìm thấy được

Bậc hoàn toàn giải thoát

Ở đây và mai sau

Ai lễ Đấng Chí Tôn

Ra đời vì bi nguyện

Những người lễ bái ấy

Có nên được tán thán?

''Pasaṃsiyā tepi bhavanti bhikkhū (mogharājāti Bhagavā),

Ye taṃ namassanti tathāvimuttaṃ.

Aññāya dhammaṃ vicikicchaṃ pahāya,

Saṅgātigā tepi bhavanti bhikkhūti..

(Bậc Thế Tôn lên tiếng)

Này Mogharājā

Họ cũng nên tán thán,

Bậc giải thoát như vậy.

Này Tỷ-kheo khất sĩ,

Nếu họ biết Chánh pháp,

Ðoạn trừ được nghi hoặc,

Họ trở thành giải thoát.

Bản hiệu đính

[Thế Tôn]

Ai biết lễ bái Phật

Và hiểu được Giáo pháp

Đoạn tận mọi nghi hoặc

Chúng tỳ kheo giải thoát

Đã cắt dây thằng thúc

Xứng đáng được tán thán.

Manujesu: nhân loại

Dhīra: Trí giả, người có hiểu biết

Saṅkapparāga: Dục tư duy, dục niệm

Citra: Tâm, ý

Theo Sớ giải thì chư thiên trong bài kinh nầy khi nói thì nhấn mạnh đến cảnh. Đức Phật thì dạy yếu tố nội tâm. Cảnh khả ái, khả ý muôn đời vẫn vậy. Người biết tu là là biết từ bỏ dục niệm.

Tôn giả Mogharāja được biết là người thiện xảo trong sự trình bày tuần tự pháp thoại (anusandhikusala).

Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu

Biên soạn Giáo trình: Tỳ kheo Giác Đẳng

-ooOoo-

4. Nasantisuttaṃ [Mūla]

34. Ekaṃ samayaṃ Bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho sambahulā satullapakāyikā devatāyo abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena Bhagavā tenupasaṅkamiṃsu upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu. Ekamantaṃ ṭhitā kho ekā devatā bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi :

''Na santi kāmā manujesu niccā,

Santīdha kamanīyāni yesu [kāmesu (ka.)] baddho.

Yesu pamatto apunāgamanaṃ,

Anāgantā puriso maccudheyyāti..

''Chandajaṃ aghaṃ chandajaṃ dukkhaṃ.

Chandavinayā aghavinayo.

Aghavinayā dukkhavinayoti..

''Na te kāmā yāni citrāni loke,

Saṅkapparāgo purisassa kāmo.

Tiṭṭhanti citrāni tatheva loke,

Athettha dhīrā vinayanti chandaṃ..

''Kodhaṃ jahe vippajaheyya mānaṃ,

Saṃyojanaṃ sabbamatikkameyya.

Taṃ nāmarūpasmimasajjamānaṃ,

Akiñcanaṃ nānupatanti dukkhā..

''Pahāsi saṅkhaṃ na vimānamajjhagā [na ca mānamajjhagā (ka. sī.), na vimānamāgā (syā. kaṃ.)],

Acchecchi taṇhaṃ idha nāmarūpe.

Taṃ chinnaganthaṃ anighaṃ nirāsaṃ,

Pariyesamānā nājjhagamuṃ.

Devā manussā idha vā huraṃ vā,

Saggesu vā sabbanivesanesūti..

''Taṃ ce hi nāddakkhuṃ tathāvimuttaṃ (iccāyasmā mogharājā),

Devā manussā idha vā huraṃ vā.

Naruttamaṃ atthacaraṃ narānaṃ,

Ye taṃ namassanti pasaṃsiyā teti..

''Pasaṃsiyā tepi bhavanti bhikkhū (mogharājāti Bhagavā),

Ye taṃ namassanti tathāvimuttaṃ.

Aññāya dhammaṃ vicikicchaṃ pahāya,

Saṅgātigā tepi bhavanti bhikkhūti..

4. Nasantisuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

34. Catutthe kamanīyānīti rūpādīni iṭṭhārammaṇāni. Apunāgamanaṃ anāgantā puriso maccudheyyāti tebhūmakavaṭṭasaṅkhātā maccudheyyā apunāgamanasaṅkhātaṃ nibbānaṃ anāgantā. Nibbānañhi sattā na punāgacchanti, tasmā taṃ apunāgamananti vuccati. Taṃ kāmesu baddho ca pamatto ca anāgantā nāma hoti, so taṃ pāpuṇituṃ na sakkoti, tasmā evamāha. Chandajanti taṇhāchandato jātaṃ. Aghanti pañcakkhandhadukkhaṃ. Dutiyapadaṃ tasseva vevacanaṃ. Chandavinayā aghavinayoti taṇhāvinayena pañcakkhandhavinayo. Aghavinayā dukkhavinayoti pañcakkhandhavinayena vaṭṭadukkhaṃ vinītameva hoti. Citrānīti ārammaṇacittāni. Saṅkapparāgoti saṅkappitarāgo. Evamettha vatthukāmaṃ paṭikkhipitvā kilesakāmo kāmoti vutto. Ayaṃ panattho pasūrasuttena (su. ni. 830 ādayo) vibhāvetabbo. Pasūraparibbājako hi therena ‘‘saṅkapparāgo purisassa kāmo’’ti vutte –

‘‘Na te kāmā yāni citrāni loke,

Saṅkapparāgañca vadesi kāmaṃ;

Saṅkappayaṃ akusale vitakke,

Bhikkhūpi te hehinti kāmabhogī’’ti. –

Āha. Atha naṃ thero avoca –

‘‘Te ce kāmā yāni citrāni loke,

Saṅkapparāgaṃ na vadesi kāmaṃ;

Passanto rūpāni manoramāni,

Satthāpi te hehiti kāmabhogī.

Suṇanto saddāni, ghāyanto gandhāni;

Sāyanto rasāni, phusanto phassāni manoramāni;

Satthāpi te hehiti kāmabhogī’’ti.

Athettha dhīrāti atha etesu ārammaṇesu paṇḍitā chandarāgaṃ vinayanti. Saṃyojanaṃ sabbanti dasavidhampi saṃyojanaṃ. Akiñcananti rāgakiñcanādivirahitaṃ. Nānupatanti dukkhāti vaṭṭadukkhā pana tassa upari na patanti. Iccāyasmā mogharājāti, ‘‘pahāsi saṅkha’’nti gāthaṃ sutvā tassaṃ parisati anusandhikusalo mogharājā nāma thero ‘‘imissā gāthāya attho na yathānusandhiṃ gato’’ti cintetvā yathānusandhiṃ ghaṭento evamāha. Tattha idha vā huraṃ vāti idhaloke vā paraloke vā. Naruttamaṃ atthacaraṃ narānanti kiñcāpi sabbe khīṇāsavā naruttamā ceva atthacarā ca narānaṃ, thero pana dasabalaṃ sandhāyevamāha. Ye taṃ namassanti pasaṃsiyā teti yadi tathāvimuttaṃ devamanussā namassanti, atha ye taṃ bhagavantaṃ kāyena vā vācāya vā anupaṭipattiyā vā namassanti, te kiṃ pasaṃsiyā, udāhu apasaṃsiyāti. Bhikkhūti mogharājattheraṃ ālapati. Aññāya dhammanti catusaccadhammaṃ jānitvā. Saṅgātigā tepi bhavantīti ye taṃ kāyena vā vācāya vā anupaṭipattiyā vā namassanti. Te catusaccadhammaṃ aññāya vicikicchaṃ pahāya saṅgātigāpi honti, pasaṃsiyāpi hontīti. Catutthaṃ.