Môn học: THẮNG PHÁP PHỔ THÔNG | THẮNG PHÁP TẬP YẾU (ABHIDHAMMATTHASAṄGAHA) | Bài 118. Duyên Sinh

Friday, 14/02/2025, 23:12 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: THẮNG PHÁP PHỔ THÔNG

THẮNG PHÁP TẬP YẾU (ABHIDHAMMATTHASAṄGAHA)

Bài 118. Duyên Sinh

Tattha (1) avijjāpaccayā saṃkhārā, (2) saṃkhārapaccayā viññāṇaṃ, (3) viññāṇapaccayā nāmarūpaṃ, (4) nāmarūpapaccayā saḷāyatanaṃ, (5) saḷāyatanapaccayā phasso, (6) phassapaccayā vedanā, (7) vedanāpaccayā taṇhā, (8) taṇhāpaccayā upādānaṃ, (9) upādānapaccayā bhavo, (10) bhavapaccayā jāti, (11) jātipaccayā jarāmaraṇa-soka-parideva-dukkha-domass’-upāyāsā sambhavanti. Evam etassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hotī ti. Ayam ettha paṭiccasamuppādanayo.

Tóm Lược về Duyên Khởi

Trong đó:

  1. Do vô minh (avijjā) làm duyên, hành (saṃkhāra) sanh khởi;
  2. Do hành (saṃkhāra) làm duyên, thức (viññāṇa) sanh khởi;
  3. Do thức (viññāṇa) làm duyên, danh-sắc (nāmarūpa) sanh khởi;
  4. Do danh-sắc (nāmarūpa) làm duyên, sáu xứ (saḷāyatana) sanh khởi;
  5. Do sáu xứ (saḷāyatana) làm duyên, xúc (phassa) sanh khởi;
  6. Do xúc (phassa) làm duyên, thọ (vedanā) sanh khởi;
  7. Do thọ (vedanā) làm duyên, ái (taṇhā) sanh khởi;
  8. Do ái (taṇhā) làm duyên, thủ (upādāna) sanh khởi;
  9. Do thủ (upādāna) làm duyên, hữu (bhava) sanh khởi;
  10. Do hữu (bhava) làm duyên, sanh (jāti) sanh khởi;
  11. Do sanh (jāti) làm duyên, già và chết, sầu, bi, khổ, ưu, não (jarāmaraṇa-soka-parideva-dukkha-domass’-upāyāsā) sanh khởi.

Như vậy, toàn bộ khối khổ đau này sanh khởi.
Ở đây, đây là phương pháp duyên khởi.

Chú Thích

Duyên Khởi (Paṭiccasamuppādanaya)

Duyên khởi về bản chất là một sự giải thích về cấu trúc nhân quả của vòng luân hồi (vaṭṭa), làm sáng tỏ các điều kiện (paccayā) duy trì bánh xe sinh tử (saṃsāra) và khiến nó luân chuyển từ đời sống này sang đời sống khác. Trong các bộ Chú Giải, duyên khởi được định nghĩa là sự sanh khởi của các quả đồng đều, dựa trên sự kết hợp của các điều kiện (paccaya-sāmaggiṃ paṭicca samaṃ phalānaṃ uppādo). Điều này ngụ ý rằng không có một nguyên nhân đơn lẻ nào có thể tạo ra một kết quả, cũng như không có một kết quả nào chỉ xuất phát từ một nguyên nhân duy nhất. Thay vào đó, luôn có một tập hợp các điều kiện tạo ra một tập hợp các kết quả. Khi trong công thức quen thuộc, một trạng thái được tuyên bố là điều kiện cho một trạng thái khác, điều này nhằm chỉ ra điều kiện chính yếu trong số các điều kiện và liên kết nó với kết quả quan trọng nhất trong số các kết quả (Đây là giải thích theo Visuddhimagga XVII and Sammohavinodanī XVI)


(1) Do vô minh làm duyên, hành sanh khởi

Vô minh (avijjā) là thuộc tánh si (moha), che lấp nhận thức về bản chất thực sự của vạn pháp, giống như cườm mắt (đục thủy tinh thể - cataract) che khuất khả năng nhìn của mắt. Theo phương pháp giải thích của Kinh Tạng, vô minh là sự không hiểu biết về Tứ Thánh Đế. Theo Thắng Pháp (Abhidhamma), vô minh là sự không hiểu biết về tám điều: bốn Thánh Đế, quá khứ trước khi tái sinh, tương lai sau khi chết, quá khứ cùng tương lai của sự việt và pháp duyên khởi.

Hành (saṃkhārā) là thuộc tánh tư (cetanā) đi trong 29 tâm bất thiện và tâm thiện hiệp thế. Tám tâm đại thiện cùng với năm tâm thiện sắc giới thiện, được gọi chung là “phúc hành” (puññābhisaṃkhāra). Mười hai tâm bất thiện được gọi là “phi phúc hành” (apuññābhisaṃkhāra). Bốn tâm thiện vô sắc thiện được gọi là “bất động hành” (āneñjābhisaṃkhāra).

Khi dòng tâm thức của một chúng sinh bị vô minh chi phối, thì các hành của họ sẽ tạo ra nghiệp có khả năng đưa đến quả báo trong tương lai. Do đó, vô minh được gọi là điều kiện chính yếu của hành. Vô minh chiếm ưu thế trong các hành vi bất thiện và tiềm ẩn trong các hành vi thiện hiêp thế. Vì vậy, cả các hành thiện và bất thiện hiệp thế đều được xem là do vô minh làm duyên mà sanh khởi.


(2) Do hành làm duyên, thức sanh khởi

Các hành — tức 29 thuộc tánh tư thiện và bất thiện — làm duyên cho sự sanh khởi của 32 loại tâm quả. Vào thời điểm tái sinh, một nghiệp đặc biệt mạnh mẽ đã được tích lũy trong dòng tâm thức của chúng sinh tiền kiếp, sẽ tạo ra một trong 19 loại tâm tái sinh trong cảnh giới phù hợp để nghiệp ấy trổ quả. Sau đó, trong suốt quá trình tồn tại, các nghiệp khác đã tích lũy sẽ tạo ra các loại tâm quả khác theo hoàn cảnh.


(3) Do thức làm duyên, danh-sắc sanh khởi

Ở đây, thức (viññāṇa) không chỉ đề cập đến tâm quả mà còn bao gồm cả tâm tạo nghiệp từ các đời sống trước. “Danh” (nāma) là các thuộc tánh trong các tâm quả, trong khi “sắc” (rūpa) là các hiện tượng vật chất do nghiệp tạo ra.

  • Trong năm uẩn sanh hữu (pañcavokārabhava) — tức những cảnh giới có đủ năm uẩn — thức làm duyên cho cả danh và sắc.
  • Trong bốn uẩn sanh hữu (catuvokārabhava) — tức các cảnh giới vô sắc — thức chỉ làm duyên cho danh.
  • Trong nhất uẩn sanh hữu (ekavokārabhava) — tức cảnh giới vô tưởng — thức chỉ làm duyên cho sắc.

Khi một chúng sinh tái sinh trong một cảnh giới có năm uẩn, vào khoảnh khắc tục sinh (paṭisandhi) ba uẩn tâm còn lại (thọ, tưởng, hành) sanh khởi cùng với một nhóm sắc pháp — trong trường hợp con người, như là sắc mạng quyền, sắc giới tính và sắc ý vật…

Vì thức là yếu tố chính trong số các yếu tố tâm-vật lý này, nên nói rằng thức làm duyên cho danh-sắc.


(4) Do danh-sắc làm duyên, sáu xứ sanh khởi

Ở đây, "danh-sắc" (nāmarūpa) có cùng ý nghĩa như trong bước (3). Sáu xứ (saḷāyatana) bao gồm:

  • Năm xứ đầu tiên là các sắc pháp thuộc nhóm thần kinh ngũ quan: nhãn (mắt), nhĩ (tai), tỷ (mũi), thiệt (lưỡi) và thân.
  • Ý xứ (manāyatana) chính là 32 loại tâm quả (cittāvipāka).

Khi các sắc pháp do nghiệp sanh khởi, chúng làm duyên cho sự hình thành của năm căn cảm giác, vốn cũng là những loại sắc pháp do nghiệp tạo ra. Khi các thuộc tánh(cetasika) liên quan sanh khởi, chúng làm duyên cho sự xuất hiện của tâm quả, ở đây gọi là "ý xứ".

Nói cách khác, tâm quả làm duyên cho danh (nāma) và danh làm duyên cho tâm quả; chúng liên hệ với nhau như duyên hỗ tương (aññamaññapaccaya).

  • Trong dục giới (kāmabhava), danh-sắc làm duyên cho sự sanh khởi của cả sáu xứ.
  • Trong sắc giới (rūpabhava), chỉ có ba xứ sanh khởi: nhãn xứ, nhĩ xứ và ý xứ.
  • Trong vô sắc giới (arūpabhava), chỉ có ý xứ, vì năm xứ vật chất không tồn tại.

(Ý xứ - manāyatana - có lúc bao gồm tất cả tâm (….) ở đây chỉ bao gồm tâm quả).


(5) Do sáu xứ làm duyên, xúc sanh khởi

Xúc (phassa) ở đây đề cập đến xúc liên quan đến tâm quả. Xúc là sự gặp gỡ (sangati) giữa thức, các thuộc tánh và đối tượng tại một trong sáu căn.

  • Khi xúc sanh khởi tại nhãn căn, nó được gọi là nhãn xúc, đánh dấu sự hội tụ của mắt, sắc trần và nhãn thức.
  • Tương tự, có các loại xúc khác: nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc, mỗi loại sanh khởi tùy theo căn tương ứng.
  • Ý xúc là xúc đi kèm với 22 loại tâm quả, trừ 10 tâm thuộc nhóm ngũ song thức (tức là 5 tâm quả thiện và 5 tâm quả bất thiện liên quan đến năm giác quan).

Vì xúc chỉ có thể sanh khởi khi có sáu xứ, nên nói rằng xúc do sáu xứ làm duyên mà sanh.


(6) Do xúc làm duyên, thọ sanh khởi

Mỗi khi có xúc, thọ (vedanā) sanh khởi đồng thời, tùy thuộc vào chính xúc ấy.

  • Xúc là sự gặp gỡ của thức với đối tượng.
  • Khi có xúc, luôn có một cảm thọ đi kèm, tùy thuộc vào bản chất của xúc.

sáu loại thọ:

  1. Thọ do nhãn xúc
  2. Thọ do nhĩ xúc
  3. Thọ do tỷ xúc
  4. Thọ do thiệt xúc
  5. Thọ do thân xúc
  6. Thọ do ý xúc

Xét về tính chất cảm giác, thọ có thể là:

  • Lạc thọ (cảm giác dễ chịu)
  • Khổ thọ (cảm giác đau đớn, khó chịu)
  • Xả thọ (trung tính, không vui cũng không khổ)

Tùy theo căn và đối tượng, thọ có thể có những phẩm chất khác nhau.


(7) Do thọ làm duyên, ái sanh khởi

Thọ làm duyên cho sự sanh khởi của ái (taṇhā).

Có sáu loại ái:

  1. Ái đối với sắc
  2. Ái đối với thanh
  3. Ái đối với hương
  4. Ái đối với vị
  5. Ái đối với xúc
  6. Ái đối với pháp

Mỗi loại lại chia thành ba loại ái:

  1. Dục ái (kāmataṇhā) – ham muốn hưởng thụ khoái lạc giác quan.
  2. Hữu ái (bhavataṇhā) – khao khát tồn tại, gắn liền với quan điểm thường hằng (sassatadiṭṭhi).
  3. Vô hữu ái (vibhavataṇhā) – mong muốn hủy diệt bản thân, gắn liền với quan điểm đoạn diệt (ucchedadiṭṭhi).

Dù ái có nhiều hình thức khác nhau, về bản chất, nó chính là thuộc tánh tham (lobha).

Mặc dù ái được phân biệt theo đối tượng, nhưng nó thực sự phụ thuộc vào thọ phát sinh từ sự tiếp xúc với đối tượng đó:

  • Khi cảm nhận lạc thọ, người ta thích thú với cảm giác đó và mong muốn sở hữu đối tượng chỉ vì nó mang lại lạc thọ.
  • Khi trải nghiệm khổ thọ, người ta mong muốn thoát khỏi đau đớn và tìm kiếm một cảm giác dễ chịu thay thế.
  • Xả thọ, với bản chất tĩnh lặng của nó, cũng có thể trở thành đối tượng của ái.

Như vậy, ba loại thọ làm duyên cho sự sanh khởi của các loại ái khác nhau.


(8) Do ái làm duyên, thủ sanh khởi

Ở đây, thủ (upādāna) bao gồm bốn loại như đã giải thích ở Chương 7, §7:

  1. Dục thủ (kāmupādāna) – bám víu vào dục lạc, tức là ái (taṇhā) được tăng cường, một dạng mạnh mẽ hơn của thuộc tánh tham (lobha).
  2. Kiến thủ (diṭṭhupādāna) – bám víu vào các tà kiến (micchā-diṭṭhi).
  3. Giới cấm thủ (sīlabbatupādāna) – bám víu vào những giới luật sai lầm, tin rằng chỉ bằng cách tuân theo các nghi lễ và tập quán nhất định, có thể đạt được giải thoát.
  4. Ngã luận thủ (attavādupādāna) – bám víu vào quan niệm về một cái "ngã" hay linh hồn thường hằng.

Mỗi loại thủ này đều do ái làm duyên mà sanh khởi:

  • Trong dục thủ, tham yếu ban đầu đối với một đối tượng được gọi là ái, trong khi tham mạnh hơn, mãnh liệt hơn được gọi là thủ.
  • Trong ba loại thủ còn lại, tham chi phối tà kiến được gọi là ái, còn tà kiến được chấp nhận dưới ảnh hưởng của tham được gọi là thủ.

(9) Do thủ làm duyên, hữu sanh khởi

Hữu (bhava) có hai loại:

  1. Nghiệp hữu (kammabhava) – tiến trình tạo nghiệp, bao gồm 29 loại thuộc tánh tư thiện và bất thiện (cetanā), tức tất cả các nghiệp thiện và bất thiện dẫn đến tái sinh.
  2. Sinh hữu (upapattibhava) – tiến trình thọ quả, bao gồm 32 loại tâm quả (vipākacitta), các thuộc tánh đi chung và sắc pháp do nghiệp tạo ra.

Thủ làm duyên cho hữu theo hai cách:

  • Thủ là duyên cho nghiệp hữu, vì dưới ảnh hưởng của thủ, chúng sinh tạo nghiệp mới dẫn đến tái sinh.
  • Thủ là duyên cho sinh hữu, vì chính thủ này kéo chúng sinh quay lại vòng luân hồi (saṃsāra), dẫn đến tái sinh trong một trạng thái phù hợp với nghiệp đã tạo.

(10) Do hữu làm duyên, sanh sanh khởi

Ở đây, sanh (jāti) là sự sanh khởi của các tâm quả thế gian, các thuộc tánh đi kèm và sắc pháp do nghiệp sanh, trong một đời sống mới thuộc bất kỳ cảnh giới nào.

Nhân tố quan trọng nhất quyết định một kiếp sống mớinghiệp thiện và bất thiện trong hiện tại – tức nghiệp hữu (kammabhava).


(11) Do sanh làm duyên, già và chết, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh khởi

Khi một chúng sinh đã sanh ra, không thể tránh khỏi việc phải trải qua già (jarā), chết (maraṇa) và mọi loại khổ đau khác trong khoảng thời gian từ khi sinh ra đến khi chết, bao gồm:

  • Sầu (soka) – nỗi buồn
  • Bi (parideva) – sự than khóc
  • Khổ (dukkha) – đau đớn về thể xác
  • Ưu (domanassa) – khổ đau về tinh thần
  • Ai (upāyāsa) – sự tuyệt vọng

Tất cả những khổ đau này đều có gốc rễ trong sanh (jāti), vì vậy sanh được xem là điều kiện chính yếu làm duyên cho chúng.


Như vậy, toàn bộ khối khổ đau này sanh khởi

Toàn bộ khối khổ (dukkha) này sanh khởi thông qua chuỗi các nhân duyên liên kết lẫn nhau, được mô tả trong công thức Duyên Khởi (Paṭiccasamuppāda).

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.