Môn học: PĀLI PHÁP CÚ | XXVI. Phẩm Bà La Môn (Brahmaṇavagga) _ Kệ số 9 (dhp 391)

Monday, 06/01/2025, 17:29 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: PĀLI PHÁP CÚ

Bài học chủ nhật 29.12.2024

XXVI

Phẩm Bà La Môn

(Brahmaṇavagga)

XXVI. Phẩm Bà La Môn_Kệ số 9 (dhp 391)

Chánh văn:

9. Yassa kāyena vācāya

manasā natthi dukkataṃ

saṃvutaṃ tīhi ṭhānehi

tamahaṃ brūmi brāhmanaṃ.

(dhp 391)

Thích văn:

 

Yassa [sở thuộc cách, số ít, nam tính, quan hệ đại từ ya] của ai, đối với ai, đối với người nào.

Kāyena [sở dụng cách, số ít, nam tính, danh từ kāya] bởi thân, do thân.

Vācāya [sở dụng cách, số ít, nữ tính, danh từ vācā] bởi lời nói, bởi miệng.

Manasā [sở dụng cách, số ít, nam tính, danh từ biệt ngữ mana] bởi ý, do ý.

Natthi [na + atthias”] không có.

Dukkataṃ [chủ cách, số ít, trung tính, danh từ hợp thể dukkata (du + kata quá khứ phân từ của động từ karoti)] ác hạnh, hành vi quấy, hành động xấu.

Saṃvutaṃ [đối cách, số ít, nam tính, tính từ saṃvuta (quá khứ phân từ của động từ saṃvarati)] thu thúc, thúc liểm, phòng hộ.

Tīhi [sở dụng cách, số nhiều, trung tính, số mục tính từ ti] với ba, bởi ba.

Ṭhānehi [sở dụng cách, số nhiều, trung tính, danh từ ṭhāna] chỗ, nơi chốn, sở ty.

Việt văn:

9. Với người không ác hạnh

bởi thân, khẩu và ý,

thu thúc ba sở hành.

ta gọi ấy Phạm chí.

(pc 391)

Chuyển văn:

9. Yassa kāyena vācāya manasā dukkataṃ natthi, tīhi ṭhānehi saṃvutaṃ ahaṃ brāhmaṇaṃ taṃ brūmi.

Đối với ai không có hành vi xấu bởi thân, khẩu và ý, đã thu thúc ba sở hành. Ta gọi người ấy là Bà la môn.

Duyên sự:

Kệ ngôn này, đức Phật thuyết ở Sāvatthi, khi Ngài trú tại Jetavanavihāra, vì chuyện trưởng lão ni Mahāpajāpatigotamī.

Di mẫu Mahāpajāpatigotamī cùng với 500 công nương dòng Thích ca là những vị tỳ kheo ni thành tựu cụ túc giới đặc biệt.

Khi di mẫu đến Vesāli xin xuất gia tỳ kheo ni, đức Thế Tôn đã ba lần từ khước lời cầu xin đó; Tôn giả Ānanda đã nói giúp để xin Thế Tôn cho phép di mẫu và các công nương được xuất gia tỳ kheo ni trong giáo pháp. Bậc Đạo sư truyền dạy tám kĩnh pháp (aṭṭha garudhammā) nếu di mẫu chấp nhận thì đó là nghi thức đắc giới tỳ kheo ni.

Di mẫu Mahāpajāpati trân trọng chấp nhận thọ trì tám kĩnh pháp, nên đã trở thành tỳ kheo ni trong giáo pháp. Sau đó, tất cả đều chứng đắc quả vị A la hán.

Thời gian sau, đức Thế Tôn ban hành luật về nghi thức xuất gia tỳ kheo ni có thầy tế độ (upajjhāyo) và thầy giáo thọ (ācariyo). Bấy giờ, hội chúng ni hậu sanh, một số tỳ kheo ni có lời đàm tiếu: “Bà Mahāpajāpatigotamī tự mặc y cà sa, không có thầy tế độ và thầy giáo thọ”. Vì vậy, chư tỳ kheo ni ấy không chịu làm bố tát, tự tứ với bà.

Họ đã đến trình bày sự việc ấy lên đức Phật. Ngài phán: “Tám kĩnh pháp đã được ta truyền dạy cho bà Mahāpajāpatigotamī, chính ta là thầy giáo thọ, chính ta là thầy tế độ của bà. Không nên có sự nghi ngại đối với các bậc Lậu tận đã loại trừ thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh”.

Nói xong, đức Phật đã thuyết lên bài kệ này: Yassa kāyena vācāya…v.v…tamahaṃ brūmi brāhmaṇan’ ti.

Dứt kệ ngôn, có nhiều người chứng đắc thánh quả.

Lý giải:

Danh từ Brāhmaṇa trong kệ ngôn này, “taṃ ahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ” “ta gọi người ấy là vị bà la môn”, đây là ám chỉ bậc A la hán, bà la môn lậu tận (khīnāsavabrāhmaṇa).

Sau khi nghe chư tỳ kheo ni trình bày sự hoang mang của họ về phẩm mạo tỳ kheo ni của bà Mahāpajāpatigotamī có đắc cụ túc giới chăng? Vì bà tự mặc y cà sa, không có hội chúng chứng minh, không có ai là thầy tế độ, không có ai là thầy giáo thọ yết ma. Đức Phật đã xác nhận, lúc đó trong giáo pháp này chưa có hội chúng tỳ kheo ni, nên khi Ngài là vị Đạo sư, vị Chánh Đẳng Giác, đưa ra tám kĩnh pháp (aṭṭha garudhammā) nếu bà Mahāpajāpatigotamī và 500 công nương Sakya chấp nhận thọ trì, thì họ đã thành tựu phẩm mạo tỳ kheo ni và chính Ngài là vị thầy tế độ, thầy giáo thọ của họ.

Khi đã xác nhận phẩm mạo tỳ kheo ni của bà Mahāpajāpatigotamī, đức Phật đã xác chứng phẩm hạnh A la hán của bà bằng cách thuyết kệ ngôn trên.

Câu nói: “Đối với ai không có hành vi xấu bởi thân, khẩu và ý” (yassa kāyena vācāya manasā natthi dukkataṃ), có nghĩa là người nào đã loại trừ thân ác hạnh (kāyaduccaritavirahita), loại trừ khẩu ác hạnh (vacīduccaritavirahita), loại trừ ý ác hạnh (manoduccaritavirahita).

Câu nói: “Đã thu thúc ba sở hành” (Saṃvutaṃ tīhi ṭhānehi), nghĩa là đóng kín ba cửa: thân môn, khẩu môn và ý môn, mục đích ngăn chặn thân ác hạnh, khẩu ác hạnh và ý ác hạnh.

Người mà đã loại trừ ba ác hạnh, đã đóng ba cửa ác hạnh, người ấy đức Phật gọi là vị Bà la môn, tức là bậc A la hán./.

Tỳ kheo Tuệ Siêu biên soạn.