Môn học: PĀLI PHÁP CÚ | XXVI. Phẩm Bà La Môn (Brahmaṇavagga) _ Kệ số 35 (dhp 417)

Friday, 11/04/2025, 03:19 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: PĀLI PHÁP CÚ

 Bài học thứ hai 7.4.2025

XXVI

Phẩm Bà La Môn

(Brāhmaṇavagga)

XXVI. Phẩm Bà La Môn_Kệ số 35 (dhp 417)

Chánh văn:

35. Hitvā mānusakaṃ yogaṃ

dibbaṃ yogaṃ upaccayā

sabbayogavisaṃyuttaṃ

tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

(dhp 417)

Thích văn:

Hitvā [bất biến quá khứ phân từ của động từ jahati; Còn có hình thức khác: Jahitā. “hā + a + tvā”] sau khi từ bỏ, đã bỏ rơi.

Mānusakaṃ [đối cách, số ít, nam tính, tính từ chuyển hóa mānusaka (mānusa + ka)] thuộc về nhân loại, thuộc loài người.

Yogaṃ [đối cách, số ít, nam tính, danh từ yoga] ách phược, sự ràng buộc.

Dibbaṃ [đối cách, số ít, nam tính, tính từ dibba] thuộc về tiên thiên, thuộc loài trời.

Upaccagā [động từ quá khứ, quá khứ cách, parassapada, ngôi III, số ít, “upa + ati + gam”] đã vượt qua, đã thoát khỏi.

Sabbayogavisaṃyuttaṃ [đối cách, số ít, nam tính, tính từ hợp thể Sabbayogavisaṃyutta (“sabba + yoga+ visaṃyutta)] lìa khỏi mọi sự ràng buộc, ly ách phược.

Việt văn:

35. Bỏ trói buộc cõi người,

vượt trói buộc cõi trời,

lìa khỏi mọi ách phước,

ta gọi ấy Phạm chí.

(pc 417)

Chuyển văn:

35. Mānusakaṃ yogaṃ hitvā dibbaṃ yogaṃ upaccayā sabbayogavisaṃyuttaṃ taṃ ahaṃ brāhmaṇaṃ brūmi.

35. Người đã dứt bỏ sự ràng buộc cõi người, vượt qua sự ràng buộc cõi trời, thoát ly mọi buộc ràng_người ấy, ta gọi là vị bà la môn.

Duyên sự:

Bài kệ này, đức Phật thuyết ở thành Rājagaha, khi Ngài trú ở chùa Veḷuvana, do chuyện vị tỳ kheo xưa là diễn viên múa.

Trong thành Rājagaha, có một nam diễn viên múa, khi lưu diễn khắp nơi nhân duyên được nghe đức Phật thuyết pháp, người ấy phát tâm xuất gia theo đức Phật rồi chứng đắc A la hán.

Một ngày kia, vị ấy đi khất thực trong thành cùng với chúng tỳ kheo do đức Phật dẫn đầu. Khi đi ngang qua chổ biểu diễn nghệ thuật múa, các tỳ kheo thấy một diễn viên đang khiêu vũ. Thấy vậy, chư tỳ kheo hỏi vị tỳ kheo xưa là diễn viên múa: “Này hiền giả, người đó đang biểu diễn nghệ thuật múa mà hiền giả đã từng biểu diễn, bây giờ hin giả có còn thích thú việc này chăng?” Tỳ kheo ấy đáp “tôi không còn thích thú nữa”.

Khi về đến chùa, các vị tỳ kheo đem lời nói ấy bạch trình lên đức Thế Tôn, cho rằng tỳ kheo ấy nói không thật, khoe pháp thượng nhân.

Đức Phật phán dạy: “Này chư tỳ kheo, quả thật vậy, con trai của ta đã vượt qua mọi sự trói buộc rồi”. Nói xong Ngài thuyết lên bài kệ này: Hitvā mānusakaṃ yogaṃ…v.v…tamahaṃ brūmi brāhmaṇan’ ti.

Dứt kệ ngôn có nhiều vị tỳ kheo đắc được quả thánh.

Lý giải:

Sự ràng buộc ở cõi người (mānusakaṃ yogaṃ) tức là năm trưởng dưỡng và tuổi thọ ở cõi nhân loại (mānusakaṃ āyuñceva pañca kāmaguṇe ca).

Sự ràng buộc cõi trời (dibbaṃ yogaṃ) tức là tuổi thọ và năm dục trưởng dưỡng ở cõi chư thiên (dibbaṃ āyuñceva pañca kāmaguṇe ca).

Bỏ ràng buộc cõi người, vượt ràng buộc cõi trời (mānusakaṃ yogaṃ hitvā dibbaṃ yogaṃ upaccagā), tức là vượt qua, không dính mắc cõi người và cõi trời (mānusakaṃ yogaṃ dibbaṃ yogaṃ atikkanto).

Ta gọi người ấy là bà la môn (tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ). Người ấy (taṃ) là người lìa khỏi bốn ách phược (dục ách, hữu ách, kiến ách và vô minh ách). Đức Phật gọi người ly bốn ách ấy là bậc Phạm chí, tức là bậc Lậu tận.

Tỳ kheo Tuệ Siêu biên soạn.