- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Abbot: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Website: chuaphapluan.com
- View Map
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: PĀLI PHÁP CÚ
Bài học thứ năm 23.1.2025
XXVI
Phẩm Bà La Môn
(Brāhmaṇavagga)
XXVI. Phẩm Bà La Môn_Kệ số 16 (dhp 398)
Chánh văn:
16. Chetvā naddhiṃ varattañca
sandānaṃ sahanukkamaṃ
ukkhittapaḷighaṃ buddhaṃ
tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
(dhp 398)
Thích văn:
Chetvā [bất biến quá khứ phân từ của động từ chindati (
Naddhiṃ [đối cách, số ít, nữ tính, danh từ naddhi] dây xỏ vào mũi trâu bò để điều khiển, dây nọng.
Varattañca [hợp âm varattaṃ ca]
Varattaṃ [đối cách, số ít, nữ tính, danh từ varattā] dây dài cột từ dây nọng để cầm giựt kéo điều khiển, dây dàm.
Sandānaṃ [đối cách, số ít, trung tính, danh từ sandāra] dây da có về bảng nịt vào cổ bò hay ngựa để bắt vào càng xe, hay để bắt kế yên ngựa, dây đai.
Sahanukkanaṃ [đối cách, số ít, trung tính, danh từ hợp thể sahanukkama (saha + anukkama)] cùng với vật phụ kiện, cùng với vật dùng linh tinh.
Ukkhittapaḷighaṃ [đối cách, số ít, nam tính, tính từ hợp thể ukkhittapaligha (ukkhitta + paligha) đã tháo dỡ then gài, thanh chắn đã gỡ bỏ.
Buddhaṃ [đối cách, số ít, nam tính, tính từ buddha (quá khứ phân từ của bhujjhati_(
Việt văn:
16. Cắt dây nọng, dây dàm,
dây đai cùng dây hờ,
bỏ then gài, thức tỉnh
ta gọi ấy Phạm chí.
(pc 398)
Chuyển văn:
16. Naddhiṃ varattaṃ sahanukkamaṃ ca sandānaṃ chetvā ukkhittapaḷighaṃ buddhaṃ taṃ ahaṃ brāhmaṇaṃ brūmi.
Người cắt đứt dây nọng, cắt đứt dây dàm, cắt đứt dây đai cùng với phụ hờ, đã tháo gỡ then gài, đã giác ngộ, người ấy ta gọi là vị Phạm chí.
Duyên sự:
Bài kệ này, đức Phật thuyết khi Ngài trú ở Jetavana, gần thành Sāvatthi, do chuyện hai người bà la môn.
Hai người bà la môn nọ, mỗi người có một con bò khỏe. Một ngày kia, khi họ nói chuyện về con bò của họ, người nào cũng bảo con bò của mình có sức mạnh vô địch. Họ tranh cãi, không ai thuyết phục được ai. Cuối cùng họ cùng đưa ra giải pháp ôn hòa là cho hai con bò kéo hai chiếc xe đồng trọng tải, con bò của ai kéo lăn bánh được chiếc xe thì người đó chiến thắng và con bò của người đó được công nhận là mạnh nhất.
Thế là cả hai dẫn bò đến bờ sông Aciravatī, đem lại hai chiếc xe bò. Họ múc cát đổ đầy thùng xe; dùng dây nọng, dây dàm, dây đai bắt vào mỗi con bò với một chiếc xe.
Lúc ấy, có nhiều vị tỳ kheo cũng đến sông để tắm. Hai người bà la môn bắt đầu đánh xe, mỗi con bò của họ đều gắng sức nhưng chiếc xe vẫn đứng yên không nhúc nhích và rồi các dây đai, dây dàm bị bứt đứt. Các tỳ kheo nhìn thấy vậy về đến chùa đã trình bày sự việc ấy với bậc Đạo sư. Bậc Đạo sư phán dạy: “Này chư tỳ kheo, dây nọng, dây dàm đó chỉ là bên ngoài thôi, bất cứ ai cũng bứt đứt được các dây đó. Nhưng với vị tỳ kheo phải nên cắt đứt dây nọng phẫn nộ và dây dàm ái tham bên trong kìa!” Nói xong đức Phật thuyết lên bài kệ này: “Chetvā naddhiṃ varattañca…v.v…tamahaṃ brūmi brāhmaṇan’ ti.
Khi Thế Tôn dứt kệ ngôn, năm trăm vị tỳ kheo đã trú vào quả vị A la hán. Pháp thoại cũng đem lại lợi ich cho hội chúng có mặt nơi ấy.
Lý giải:
Bài kệ này, đức Phật thuyết cho chư tỳ kheo nghe khi các vị thuật lại chuyện hai người bà la môn thi thố sức mạnh con bò của mình, bò khỏe kéo xe nặng khiến cho các dây cột thắng xe vào con bò bị bứt đứt.
Đức Phật nhân chuyện ấy, đã dạy chư tỳ kheo nên tự bứt đứt dây cột bên trong là phiền não để chứng ngộ chân lý.
Cắt dây nọng (naddhiṃ), nghĩa là chặt đứt sự hiềm hận (kodhaṃ). Sự hiềm hận trong ý nghĩa cột oan trái nên ví như dây nọng (naddhiṃ).
Cắt dây dàm (varattaṃ), nghĩa là chặt đứt sự tham ái (taṇhaṃ). Sự tham ái trong ý nghĩa trói buộc nên ví như dây dàm (varattaṃ).
Cắt dây đai (sandānaṃ), nghĩa là chặt đứt tà kiến (micchādiṭṭhi), tức sáu mươi hai tà kiến (dvāsaṭṭhidiṭṭhi). Tà kiến trong ý nghĩa chấp chặt nên ví như dây đai (sandānaṃ).
Cùng với dây phụ hờ (sahanukkamaṃ), nghĩa là cắt luôn cả bảy phiền não tiềm miên (anusaya). Bảy pháp tiềm miên là phiền não ngủ ngầm khi có cơ hội thì sanh khởi; tức là dục ái, phẩn nộ, tà kiến, hoài nghi, kiêu mạn, hữu ái, vô minh. Phiền não tiềm miên trong ý nghĩa chờ dịp sanh khởi nên ví như dây phụ hờ (anukkamaṃ).
Tháo then gài (ukkhittapaḷighaṃ), nghĩa là gỡ bỏ vô minh (avijjā). Vô minh trong ý nghĩa nhốt kín, như căn phòng có cửa được kín đáo do có then gài, thùng xe có tấm chặn bởi then gài… nên vô minh được ví như then gài (paḷighaṃ).
Thức tỉnh (buddhaṃ) nghĩa là hiểu biết, thấu triệt, giác ngộ (bhujjhatī’ ti buddho). Ở bài kệ này, chữ “buddha” không có nghĩa là đức Phật, mà có nghĩa là sự giác ngộ bốn chân lý (tứ diệu đế).
Sau khi cắt đứt mọi sợi dây trói buộc bên trong, người ấy an trú giác ngộ và đã tháo dỡ vô minh, đức Phật gọi người ấy là vị Phạm chí Lậu tận./.
Tỳ kheo Tuệ Siêu biên soạn.