Môn học: PĀLI PHÁP CÚ | XXIV. Phẩm Ái (Tanhāvagga) _ Kệ số 20 (dhp 353)

Monday, 09/12/2024, 07:27 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: PĀLI PHÁP CÚ

Bài học thứ năm 3.10.2024

XXIV

Phẩm Ái

(Tanhāvagga)

XXIV. Phẩm Ái_Kệ số 20 (dhp 353)

Chánh văn:

20. Sabbābhibhū sabbavidū hamasmi

sabbesu dhammesu anūpalitto

sabbañjaho taṇhakkhaye vimutto

sayaṃ abhiññāya kamuddiseyyaṃ.

(dhp 353)

Chuyển văn:

20. Ahaṃ sabbābhibhū asmi sabbavidū sabbesu dhammesu anūpalitto sabbañjaho taṇhakkhaye sayaṃ abhiññāya vimutto kaṃ uddiseyyaṃ.

Thích văn:

Sabbābhibhū [chủ cách, số ít, nam tính, danh từ hợp thể sabbābhibhū (sabba + abhibhū)] người chinh phục tất cả, vị chiến thắng tất cả.

Sabbavidū’ hamasmi [hợp âm sabbavidū ahaṃ asmi].

Sabbavidū [chủ cách, số ít, nam tính, danh từ hợp thể sabbavidū (sabba + vidū)] người hiểu biết tất cả, bậc thông suốt tất cả.

Ahaṃ [chủ cách, số ít, nhân xưng đại từ ngôi nhất amha] tôi, ta.

Asmi [động từ hiện tại, tiến hành cách, parassapada, ngôi I, số ít, “as + a + mi”] (tôi) là, (ta) là.

Sabbesu [định sở cách, số nhiều, nam tính, đại từ sabba] trong tất cả, trong mọi điều…

Dhammesu [định sở cách, số nhiều, nam tính, danh từ dhamma] trong các pháp.

Anūpalitto [chủ cách, số ít, nam tính, tính từ anūpalitta (an + upalitta quá khứ phân từ của động từ upalimpati)] không bị nhiễm, không bị lem luốc.

Sabbañjaho [chủ cách, số ít, nam tính, danh từ hợp thể sabbañjaha (sabbaṃ + jaha)] người dứt bỏ tất cả, vị từ bỏ tất cả.

Taṇhakkhaye [định sở cách, số ít, nam tính, danh từ hợp thể taṇhakkhaya (taṇhā + khaya)] trong sự diệt tâm ái.

Vimutto [chủ cách, số ít, nam tính, tính từ vimutta (quá khứ phân từ của động từ vimuccati)] được giải thoát, được thoát khỏi.

Sayaṃ [trạng từ] tự mình.

Abhiññāya [bất biến quá khứ phân từ của động từ abhijānāti, “abhi + ñā + ya”] sau khi thắng tri.

Kamuddiseyyaṃ [hợp âm kaṃ uddiseyyaṃ].

Kaṃ [đối cách, số ít, nam tính, nghi vấn đại từ ka] ai? người nào?

Uddiseyyaṃ [động từ khả năng cách, parassapada, ngôi I, số ít, “u + dis + a + eyyaṃ”] nên thọ giáo, nên xưng bái.

Việt văn:

20. Ta hàng phục tất cả,

ta thông hiểu tất cả,

không bị nhiễm mọi pháp,

ta từ bỏ tất cả

ái tận, ta giải thoát

đã tự mình thắng tri

ta còn thọ giáo ai?

(pc 353)

20. Ta là người chinh phục tất cả, là người thông suốt tất cả, không bị lấm nhơ trong mọi pháp, từ bỏ tất cả, ái diệt tận, ta đã giải thoát sau khi tự mình thắng tri. Ta còn thọ giáo ai nữa?

Duyên sự:

Bài kệ này, đức Phật thuyết dọc đường, khi Ngài đang hành trình đến Bārāṇasī để chuyển pháp luân.

Thuở đức Thế Tôn vừa đắc Chánh Đẳng Giác, sau khi trải qua bảy tuần l tại Bồ đề đạo tràng (Bodhimaṇḍa), Ngài cầm y bát đi đến thành Bārāṇasī để vận chuyển Pháp luân, cuộc hành trình dài mười tám do tuần.

Dọc đường, Ngài gặp du sĩ Upaka. Du sĩ Upaka thấy đức Thế Tôn bèn hỏi:

_ “Này hiền giả, các căn của hiền giả thật trong sáng, màu da thanh tịnh tươi tắn. Hiền giả xuất gia với ai? Ai là đạo sư của hiền giả? Hiền giả sùng mộ giáo pháp của vị nào?”

Được nghe hỏi vậy, đức Thế Tôn đã nói với du sĩ Upaka:

_ “Ta không có thầy tế độ hay thầy giáo thọ”.

Nói xong, đức Thế Tôn thuyết lên bài kệ này: Sabbābhibhū sabbavidū’ hamasmi…v.v…sayaṃ abhiññāya kamuddiseyyan’ ti.

Dứt bài kệ, du sĩ Upaka không hoan hỷ cũng không phản đối lời nói của đức Như Lai, chỉ lắc đầu le lưỡi rồi r theo con đường khác đi đến chỗ trú ngụ của người thợ săn nọ, ở Vaṅkahāra.

Nghe nói du sĩ Upaka đến chỗ người thợ săn và phải lòng nàng Cāpā con gái người thợ săn, du sĩ Upaka hoàn tục và cưới cô gái ấy. Chẳng bao lâu họ sanh ra đứa con trai. Lúc hát ru dỗ con, nàng Cāpā nói như chế nhạo Upaka: “Đừng khóc nữa, hỡi con trai của du sĩ Upaka, con của người bán thịt rừng!”. Nghe vậy, Upaka bực bội bảo rằng mình sẽ bỏ đi để tìm người bạn là Anantajina (Người chiến thng bất bại).

Thế rồi Upaka bỏ nhà ra đi tìm đức Phật ở Sāvatthi. Ông gặp đức Phật và xin xuất gia vào Tăng đoàn. Nhờ tinh tấn thiền quán, Upaka đắc quả A na hàm.

Về sau, nàng Cāpā cũng xuất gia làm tỳ kheo ni và chứng quả A la hán.

Lý giải:

Bài kệ này đức Thế Tôn nói ra, mô tả phẩm chất của một vị Phật và để trả lời cho du sĩ Upaka biết Ngài là vị Phật tự mình giác ngộ giải thoát, Ngài không có thầy chỉ dạy, Ngài không thọ giáo ai. Do đó, Phật ngôn này không ý nghĩa dạy triệt để dẫn dắt chúng sanh đạt đến quả hữu học (sekhabhāgiya) hay đạt đến quả vô học A la hán (ribaddhabhāgiya), mà phật ngôn này chỉ tạo dấu ấn (vāsanābhāgiya). Du sĩ Upaka sau khi nghe Phật ngôn này xong không hoan hỷ cũng không phản đối, chỉ ghi nhận rồi r đường khác mà đi, về sau ông ta khi bực bội với lời chế nhạo của Cāpā, vợ ông ta, liền nhớ đến đức Phật, một vị chiến thắng bất bại. Rồi ông ta bỏ nhà đi tìm đức Phật và xin xuất gia với Ngài, hành đạo chứng A na hàm.

Bài pháp đầu tiên mà đức Phật tiếp độ năm vị nhóm Kondañña, ở Migadāya Uruvedā gần thành Bārāṇasī gọi là kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavattanasutta), đó mới là Phật ngôn hướng chúng sanh thành tựu thánh quả. Kệ ngôn mà đức Phật thuyết giữa đường trong hành trình đến Migadāya Uruvelā để vận chuyển Pháp luân, chỉ mục đích tạo ấn tượng cho Upaka thôi.

Về ý nghĩa của bài kệ này:

Sabbābhibhū, bậc chinh phục tất cả. Nghĩa là vị Phật đã vượt qua mọi pháp thuộc ba cõi: dục giới, sắc giới và vô sắc giới.

Sabbavidū, bậc thông suốt tất cả. Nghĩa là vị Toàn giác hiểu rõ ba giới vức hiệp thế (dục giới vức, sắc giới vức và vô sắc giới vức), hiểu rõ giới vức siêu thế. Như vậy, bậc thông suốt tất cả, là thông suốt bốn giới vức (catubhūmaka).

Sabbesu dhammesu anūpalitto, bậc không bị nhiễm mọi pháp. Nghĩa là vị Phật không bị nhiễm ô bởi ái và tà kiến đối với tất cả pháp thuộc ba cõi.

Sabbañjaho, bậc từ bỏ tất cả. Nghĩa là vị Phật là vị đã an trú sau khi từ bỏ mọi hệ lụy trong đời.

Taṇhakkhaye vimutto, bậc giải thoát khi ái tận. Nghĩa là khi chứng quả A la hán ái tận thì Ngài được giải thoát.

Sayaṃ abhiññāya, tự mình thắng tri. Nghĩa là do chính mình thấu triệt các pháp cần thắng tri như hữu vi giới và vô vi giới…v.v…Đức Phật tự mình giác ngộ các pháp không có thầy chỉ dạy.

Phật ngôn này mô tả Phật vức (buddhavisaya) nên du sĩ Upaka không đủ khả năng lãnh hội, chỉ tạo ấn tượng trong tiềm thức Upaka để sau này nhớ mà đi tìm đức Phật./.

Tỳ kheo Tuệ Siêu biên soạn.