Môn học: PĀLI PHÁP CÚ | XXII. Phẩm Khổ Cảnh (Nirayavagga) _ Kệ số 9 (dhp 314)

Friday, 19/07/2024, 06:50 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: PĀLI PHÁP CÚ

Bài học thứ năm 18.7.2024

XXII

Phẩm Khổ Cảnh

(Nirayavagga)

XXII. Phẩm Khổ Cảnh_Kệ số 9 (dhp 314)

Chánh văn:

9. Akataṃ dukkataṃ seyyo

pacchā tappati dukkataṃ

katañca sukataṃ seyyo

yaṃ katvā n’ ānutappati.

(dhp 314)

Chuyển văn:

9. Dukkataṃ akataṃ seyyo dukkataṃ pacchā tappati, sukataṃ ca kataṃ seyyo yaṃ katvā na anutappati.

Thích văn:

Akataṃ [chủ cách, số ít, trung tính, tính từ akata (a + kata quá khứ phân từ của động từ karoti)] không làm, không tạo.

Dukkataṃ [chủ cách, số ít, trung tính, tính từ hợp thể dukkata (du + kata)] hành động xấu, việc làm quấy.

Seyyo [bất biến từ] tốt hơn là, tốt nhất là.

Pacchā [trạng từ] về sau, sau này.

Tappati [động từ tiến hành cách thì hiện tại, ngôi III, số ít, “tap + ya + ti”] nóng nảy, đốt nóng, ray rức, giày vò.

Katañca [hợp âm kataṃ ca].

Kataṃ [chủ cách, số ít, trung tính, tính từ kata (quá khứ phân từ của động từ karoti)] làm, hành động.

Sukataṃ [tính từ hợp thể sukata (su + kata)] hành động tốt, việc làm tốt.

Yaṃ [đối cách, số ít, trung tính, quan hệ đại từ ya] điều mà, việc mà, việc chi.

Katvā [bất biến quá khứ phân từ của động từ karoti] sau khi làm, đã làm xong.

Nānutāppati [hợp âm na anutappati].

Anutappati [động từ tiến hành cách thì hiện tại, ngôi III, số ít, “anu + tap + ya + ti”] ăn năn, ân hận, ray rứt.

Việt văn:

9. Điều xấu, không nên làm

làm xấu, sau bị khổ

điều tốt phải nên làm

làm rồi, không ray rứt.

(pc 314)

9. Tốt nhất là chớ làm điều xấu, một hành động xấu sẽ khổ về sau. Tốt hơn hết nên làm điều tốt, điều tốt làm xong không ray rứt.

Duyên sự:

Bài kệ này, đức Phật thuyết ở Sāvatthi, khi Ngài trú tại Jetavanavihāra, vì chuyện người phụ nữ ghen tuông nọ.

Chồng của người phụ nữ ấy đã dan díu với một tớ gái trong nhà. Người phụ nữ ấy nỗi ghen trói tay chân cô tớ gái, xẻo tai, xẻo mũi cô ả và nhốt trong căn phòng bí mật, khóa cửa lại.

Người phụ nữ ấy muốn che dấu việc mình đã làm, bèn rủ ông chồng đi đến tinh xá nghe pháp.

Thế rồi, những người khách bà con của người phụ nữ ghé vào nhà mở cửa phòng thấy cảnh tượng thương tâm bèn thả cô tớ gái ra. Cô tớ gái đi đến tinh xá đứng giữa tứ chúng đã trình bày hết sự việc ấy cho đức Phật và mọi người nghe.

Đức Phật nghe lời kể của cô tớ gái Ngài phán: “Ác hạnh dù chút ít cũng không nên làm, còn thiện hành dù không ai biết, cũng cần phải làm. Bởi vì ác hạnh đã lâu dù có che dấu nhưng về sau cũng bị ray rức, còn thiện hạnh thì khiến sanh hân hoan”. Nói xong, đức Phật thuyết lên bài kệ này: Akataṃ dukkataṃ seyyo…v.v…yaṃ katvā nānutappatī’ ti.

Dứt pháp thoại, hai vợ chồng người phụ nữ chứng đắc quả dự lưu. Ngay tại đấy họ đã trả tự do cho cô tớ gái và khiến cô ta thành người thực hành giáo pháp.

Lý giải:

Trong bài kệ, gọi là “điều xấu” (dukkataṃ) nghĩa là việc làm có tội, hành động dẫn đến khổ cảnh đọa xứ.

Tốt nhất là không nên làm điều gì có tội lỗi, bởi khi đã làm điều tội lỗi dù che dấu không ai biết, nhưng mỗi khi nhớ đến việc xấu mình đã làm thì tâm bị đốt nóng, ray rức. Đó là ý nghĩa câu nói “Làm xấu, sau bị khổ” (pacchā tappati dukkataṃ).

Còn gọi là “điều tốt” (sukataṃ) tức là việc làm không lỗi lầm, việc làm có kết quả an vui, hành động dẫn đến nhàn cảnh thiện thú.

Tốt nhất là nên làm điều lành (katañca sukataṃ seyyo), bởi sau khi đã làm điều lành, dù không ai biết cho mình, nhưng về sau hể nhớ lại việc tốt ta đã làm, thì sanh khởi tâm hoan hỷ, không bị nóng nảy, không ray rức./.

Tỳ kheo Tuệ Siên biên soạn.