Môn học: PĀLI PHÁP CÚ | XX. Phẩm Đạo Lộ (Maggavagga) _ Kệ số 13 (dhp 285)

Monday, 13/05/2024, 05:14 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: PĀLI PHÁP CÚ

Bài học chủ nhật  12.5.2024

XX

Phẩm Đạo Lộ

(Maggavagga)

XX. Phẩm Đạo Lộ_Kệ số 13 (dhp 285)

Chánh văn:

13. Ucchinda sineham_attano

                  kumudaṃ sāradikaṃ’ va pāṇinā

      santimaggemeva brūhaya

            nibbānaṃ sugatena desitaṃ.

(dhp 285)

Chuyển văn:

13. Attano sinehaṃ ucchinda sāradikaṃ kumudaṃ pāṇinā iva, santimaggaṃ eva brūhaya nibbānaṃ sugatena desitaṃ.

Thích văn:

Ucchinda [động từ mệnh lệnh cách, ngôi II, số ít, “u + chid + ṃ_a”] hãy cắt bỏ, hãy ngắt bỏ.

Sineham_attano [hợp âm sinehaṃ attano].

Sinehaṃ [đối cách, số ít, nam tính, danh từ sineha] tham ái, sự yêu thương.

Attano [sở thuộc cách, số ít, nam tính, danh từ biệt ngữ atta] của mình, của chính ta.

Kumudaṃ [đối cách, số ít, trung tính, danh từ kumuda] bông súng trắng, hoa súng trắng.

Sāradikaṃ’ va [hợp âm sāradikaṃ iva].

Sāradikaṃ [đối cách, số ít, trung tính, tính từ sāradika] thuộc về mùa thu.

Iva [bất biến từ tỳ giảo] như, ví như.

Pāṇinā [sở dụng cách, số ít, nam tính, danh từ pāṇi] với bàn tay, bởi bàn tay.

Santimaggameva [hợp âm santimaggaṃ eva].

Santimaggaṃ [đối cách, số ít, nam tính, danh từ hợp thể santimagga (santi + magga)] con đường an tịnh.

Brūhaya [động từ mệnh lệnh cách, ngôi II, số ít, “bruh + ṇaya”] hãy gia tăng, hãy phát triển, hãy tiến tu.

Nibbānaṃ [chủ cách, số ít, trung tính, danh từ nibbāna] níp bàn, sự tịch diệt.

Sugetana [sở dụng cách, số ít, nam tính, danh từ sugata] bởi đấng thiện thệ, do bậc Thiện Thệ.

Desitaṃ [chủ cách, số ít, trung tính, tính từ desita (quá khứ phân từ của động từ deseti)] được thuyết giảng, được chỉ ra.

Việt văn:

13. Hãy tự cắt tham ái

         như tay ngắt sen thu

      hãy tu đạo an tịnh

                   Níp bàn, Thiện Thệ giảng.

(pc 285)

13. Hãy tự mình cắt bỏ ái tham như với bàn tay ngắt bỏ hoa súng mùa thu; Hãy tiến tu con đường an tịnh. Níp bàn đã được bậc Thiện Thệ tuyên thuyết.

Duyên sự:

Bài kệ nầy đức Phật thuyết ở Sāvatthi khi Ngài trú tại Jetavanavihāra, vì người đệ tử của tôn giả Sāriputta.

Trưởng lão Sāriputta có tiếp độ một người đệ tử xuất gia, người ấy khôi ngôi tuấn tú là con trai của gia đình thợ kim hoàn.

Trưởng lão Sāriputta nghĩ rằng những người trẻ ái luyến sung mãn, nên đã dạy cho người đệ tử đề mục bất tịnh nhằm ngăn ngừa lòng ái luyến. Thế nhưng đề mục nầy không thích hợp với người đệ tử ấy. Vị tỳ kheo trẻ ấy đi vào rừng tinh tấn hành trong ba tháng mà không đạt được kết quả dù chỉ là ấn chứng tâm định.

Vị đệ tử trở về thăm thầy, và trình pháp.

Trưởng lão Sāriputta dạy lại đề mục quán bất tịnh cho đệ tử một cách cặn kẻ. Nhưng lần thứ hai cũng không kết quả. Rồi lần thứ ba cũng không thành công.

Trưởng lão Sāriputta đã suy nghĩ: “Vị tỳ kheo nầy hành đạo tinh tấn vẫn không đạt kết quả. Ta không biết căn cơ của người nầy; Có lẽ người nầy hửu duyên được đức Phật chuyển hoá”. Thế rồi trưởng lão dắt vị đệ tử đến đức Phật và trình bày sự việc đó.

Đức Phật phán: “Trí biết khuynh hướng tiềm miên của chúng sanh, chỉ có nơi các bậc Chánh đẳng giác, là những bậc viên mãn Ba la mật, những bậc toàn trí”.

Đức Phật liền quán xét căn duyên của vị tỳ kheo trẻ ấy, biết rằng tỳ khưu nầy xuất thân từ gia đình thợ kim hoàn, và tiền kiếp đã năm trăm kiếp liên tục sanh trong gia đình thợ kim hoàn; Thường cận y duyên tiếp xúc với màu sắc rực rỡ của vàng ròng thôi, trong tư tưởng của người nầy chỉ hướng đến những món trang sức…Thế nên bây giờ suy niệm đề mục bất mỹ là không thích hợp, không tác dụng”.

Đức Phật bèn nói với trưởng lão Sāriputta “Nầy Sāriputta, đề mục bất mỹ mà người dạy cho vị tỳ kheo nầy không phù hợp cơ tánh chỉ khiến tỳ kheo nầy mệt mõi, không có kết quả. Ngươi hãy đi về! Hôm nay sau bửa ăn trưa, vị tỳ kheo nầy sẽ chứng A la hán”.

Sau khi trưởng lão Sāriputta về rồi, đức Phật bảo vị tỳ kheo ấy ra bờ hồ sen, ngồi nhìn sen hồng nở và chú tâm niệm màu đỏ hồng của cánh sen. Hoa sen hồng ấy do thần thông của đức Phật hoá hiện.

Vị tỳ kheo làm theo lời dạy của đức Phật, nhanh chóng đắc thiền, lắng yên năm triền cái, vị ấy ngồi thoả thích hưởng lạc của thiền định. Rồi, đức Thế Tôn dùng thần thông khiến cho đoá sen hồng bị úa tàn.

Vị tỳ kheo mở mắt ra nhìn thấy sự thay đổi của đoá sen, liền quán vô thường khổ não, vô ngã. Ba tướng hiện rõ nơi tâm của tỳ kheo ấy.

Lúc ấy, không xa có một đứa bé lội xuống hồ ngắt những cọng hoa sen. Bấy giờ đức Thế Tôn ngôi trong hương thất với tha tâm thông Ngài biết tiến trình tâm của vị tỳ kheo trẻ đã chứng các tầng thiền, đang hướng đến tuệ minh sát, nhưng chủa đủ lực để khai triển tuệ quán chứng đạo quả được. Đức Thế Tôn phóng hào quang đến ngay trước mặt vị tỳ kheo trẻ ấy, và thuyết lên kệ ngôn: Ucchinda sinehamattano…v.v…nibbānaṃ sugatena desitan’ ti.

Đức Thế Tôn nói dứt kệ ngôn thì vị tỳ kheo trẻ ấy chứng đắc đạo quả A la hán.

Lý giải:

Bài kệ nầy đức Phật thuyết để hướng đến đỉnh cao là đạo quả A la hán.

“Hãy cắt bỏ tham ái nơi bản thân” (ucchinda sinehaṃ attano). Tham ái (sineha) đồng nghĩa với ái (taṇhā), tức là dục ái (kāmataṇhā), hửu ái (bhavataṇhā) và phi hửu ái (vibhavataṇhā). Vị tỳ kheo trẻ ấy đang thoả thích với lạc của thiền chính là hửu ái (bhavataṇhā) nên đức Phật đã dạy cắt bỏ nơi bản thân vị ấy. Cắt bỏ thế nào? Cắt bỏ bằng đạo tuệ A la hán (arahattamaggañāṇa), như người ta dùng tay ngắt bẻ những cọng hoa sen nở vào mùa thu.

“Hãy tu đạo an tịnh” (Santimaggaṃ eva brūhaya). Đạo an tịnh (santimaggaṃ) đồng nghĩa với Đạo thanh tịnh (visuddhimaggaṃ) tức là thánh đạo tám chi phần dẫn đến níp bàn (nibbānagāmiṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ).

Hãy tu tiến con đường đến sự an tịnh. Brūhaya là vaḍḍhaya (hãy phát triển), đồng nghĩa với bhāvehi (hãy tu tập).

“Níp bàn, đã được bậc Thiện Thệ tuyên thuyết” (nibbānaṃ sugatena desitaṃ). Bậc Thiện thệ (sugato) là đức Phật. Níp bàn là cứu cánh, là đích điểm của con đường tám chi phần. Do đó hãy tu tập con đường bát chánh dẫn đến níp bàn (tasmā tassa maggaṃ bhāvehī’ ti).

Bài kệ nầy có ý nghĩa quá rõ ràng./.

Tỳ kheo Tuệ Siên biên soạn.