Môn học: PĀLI PHÁP CÚ | VI. Phẩm Hiền Trí (Paṇḍitavagga) _ Kệ số 6 (dhp 81)

Thursday, 10/11/2022, 09:11 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: PĀLI PHÁP CÚ

Bài học ngày 10.11.2022


VI

PHẨM HIỀN TRÍ

(Paṇḍitavagga)

VI. Phẩm Hiền Trí _ Kệ số 6 (dhp 81)

Duyên sự:

Bài kệ nầy được đức Phật thuyết tại chùa Jetavana gần thành Sāvatthi, do câu chuyện của tôn giả Lakuṇṭakabhaddiya.

Tôn giả Lakuṇṭakabhaddiya được sanh ra trong một gia đình giàu có ở Sāvatthi. Ngài có thân hình thấp lùn nên người ta gọi Ngài là Lakuṇṭaka Bhaddiya.

Được nghe đức Phật thuyết pháp, Ngài phát tâm xuất gia và trở thành vị tỳ kheo có tài hùng biện và thuyết pháp với âm giọng ngọt ngào. Ngài đã chứng quả A la hán nhờ nghe tôn giả Sāriputta dạy pháp tu thân hành niệm.

Vì tôn giả Bhaddiya có thân hình nhỏ nhắn như một cậu bé và rất dể thương nên các vị sa di hay các tỳ kheo phàm phu gặp Ngài là đùa giỡn, vò đầu, bẹo má, bẹo tai, bồng ẩm ..v.v.. Tuy vậy tôn giả vẫn không tỏ ra khó chịu, bực tức, sân giận với họ.

Các vị tỳ kheo hội họp trong giảng đường đã nói chuyện về tôn giả Lakuṇṭakabhaddiya: Vị ấy hiền lành dể thương, không biết giận hờn, nỗi nóng gì cả, mặc dù bị trêu chọc, bị lấy thân làm trò tiêu khiển.

Đức Phật ngự đến giảng đường, nghe các vị tỳ kheo nói chuyện vậy. Ngài dạy rằng: Đúng thế, nầy các tỳ kheo, bậc Lậu tận không bao giờ nỗi giận phẫn nộ, giống như đá tảng không lắc lư chuyển động trước gió vậy. Rồi bậc Đạo sư nói lên bài kệ: “Selo yathā ekaghano … na sa miñjanti paṇḍitā” ti”.

Dứt pháp thoại có nhiều vị tỳ kheo đắc thánh quả.

*

Chánh văn:

Selo yathā ekaghano

vātena na samīrati

evaṃ nindāpasaṃsāsu

na samiñjanti paṇḍitā.

(dhp 81)

*

Thích văn:

selo [chủ cách số ít của danh từ nam tính sela] tảng đá.

yathā [trạng từ] cũng như, giống như.

ekaghano [chủ cách số ít nam tính của hợp thể tính từ ekaghana (eka + ghana)] nguyên khối, rắn chắc.

vātena [sở dụng cách số ít của danh từ nam tính vāta] bởi gió, do gió.

na [phủ định từ] không, chẳng.

samīrati [động từ hiện tại ngôi III số ít (saṃ + căn ir + a)] lắc, rung, chuyển động.

evaṃ [trạng từ] cũng vậy, như vậy.

nindāpasaṃsāsu [định sở cách số nhiều của hợp thể danh từ nữ tính nindāpasaṃsā (nindā + pasaṃsā)] trong sự chê khen, đối với lời chê và khen.

samiñjanti [động từ hiện tại ngôi III số nhiều (saṃ + căn iñj + a)] chao động, dao động.

paṇḍitā [chủ cách số nhiều của danh từ nam tính paṇḍita] các bậc trí, những người có trí.

*

Việt văn:

Như tảng đá nguyên khối

không lay động bởi gió

cũng vậy, giữa chê khen

bậc trí không dao động.

(pc 81)

*

Chuyển văn:

Yathā ekaghano selo vātena na samīrati, evaṃ paṇḍitā nindāpasaṃsāsu na samiñjanti.

Như tảng đá nguyên khối không lung lay bởi gió, cũng vậy, các bậc hiền trí không dao động giữa lời khen tiếng chê.

*

Lý giải:

Trong bài kệ nầy chỉ nói đến sự chê (nindā) và sự khen (pasaṃsā), ở đây nên hiểu rộng gồm cả tám pháp thế gian (lokadhammā): Được lợi (lābho), mất lợi (alābho), được danh (yaso), mất danh (ayaso), bị chê (nindā), được khen (pasaṃsā), hạnh phúc (sukhaṃ) và đau khổ (dukkhaṃ). [Nói gọn là được, mất, vinh, nhục, khen, chê, vui, khổ].

Tám pháp thế gian nầy còn gọi là tám ngọn gió đời, vì tám sự kiện ấy làm cho tâm của phàm phu quay cuồng đảo điên; do gặp thuận cảnh (được lợi, được danh, được khen, được hạnh phúc) thì tâm chúng sanh hoa hỷ, thoả mãn; Nhưng khi gặp nghịch cảnh (mất lợi, mất danh, bị chê, bị khổ) thì tâm phàm phu sầu muộn thất vọng.

Một vị thánh đệ tử hữu học gặp cảnh thăng trầm của cuộc sống nhận thức được tính “vô thường - khổ - vô ngã”, giữ tâm bình thản không vui không buồn nên không bị hệ luỵ.

Còn đối với vị đệ tử Phật là bậc lậu tận, A la hán, vị ấy đã đoạn trừ phiền não nên tâm an tịnh kiên cố như tảng đá khối, không hề bị tám ngọn gió đời lay chuyển.

Tỳ khưu Tuệ Siêu biên soạn