Môn học: THẮNG PHÁP PHỔ THÔNG | THẮNG PHÁP TẬP YẾU (ABHIDHAMMATTHASAṄGAHA) | Bài 96. Thất Tiềm Miên (Satt'ānusayā)

Friday, 30/08/2024, 05:58 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: THẮNG PHÁP PHỔ THÔNG

THẮNG PHÁP TẬP YẾU (ABHIDHAMMATTHASAṄGAHA)

Bài 96. Tổng Hợp Các Phân Loại Bất Thiện - THẤT TIỀM MIÊN (Satt’ānusayā)

Satt’ānusayā: (1) kāmarāgānusayo; (2) bhavarāgānusayo; (3) paṭighānusayo; (4) mānānusayo; (5) diṭṭhānusayo; (6) vicikicchānusayo; (7) avijjānusayo.

Có bảy tiềm miên (Anusaya):

  1. Dục tiềm miên (Kāmarāgānusaya)
  2. Hữu ái tiềm miên (Bhavarāgānusaya)
  1. Sân tiềm miên (Paṭighānusaya)
  2. Mạn tiềm miên (Mānānusaya)
  3. Kiến tiềm miên (Diṭṭhānusaya)
  1. Nghi hoặc tiềm miên (Vicikicchānusaya)
  1. Vô minh tiềm miên (Avijjānusaya)

Chú thích

Bảy pháp tiềm miên - Satt’ānusayā - là một khái niệm quan trọng trong tâm lý học Phật giáo, chỉ những xu hướng hoặc khuynh hướng ăn sâu trong tâm trí và có thể xuất hiện khi gặp phải những điều kiện phù hợp. Những khuynh hướng tiềm ẩn này được coi là các phiền não, nếu không được diệt trừ, sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến hành vi và duy trì vòng luân hồi khổ đau (samsara). Có thể nói tâm chúng sanh còn lậu hoặc tiềm miên, giống như một cục đất dù nhất thời không có cỏ mọc, nhưng là có thể không lâu khi gặp điều kiện thích hợp thì cỏ dại sanh từ đó.

Thuật ngữ “ānusaya” có nghĩa là "nằm cùng với" hoặc "tiềm ẩn". Những phiền não này không phải lúc nào cũng hoạt động, mà nằm dưới dạng tiềm ẩn và có thể xuất hiện khi gặp các điều kiện phù hợp. Ví dụ, dục vọng giác quan có thể không luôn hiện diện, nhưng nó có thể xuất hiện khi gặp đối tượng hấp dẫn. Những khuynh hướng tiềm ẩn này được coi là tinh vi và ăn sâu, khiến chúng khó bị nhổ tận gốc.

Có bảy phiền não tiềm miên:

  1. Dục tiềm miên (Kāmarāgānusaya) là sự khao khát đối với các khoái lạc giác quan, có thể xuất hiện khi gặp phải các đối tượng hấp dẫn.
  2. Hữu ái tiềm miên (Bhavarāgānusaya) là sự mong muốn tiếp tục tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào, dù là trong cõi dục giới, cõi sắc giới, hay cõi vô sắc giới.
  3. Sân tiềm miên (Paṭighānusaya) biểu hiện dưới dạng tức giận, thù hận, hoặc bất kỳ hình thức phẩn nộ nào khi đối diện với các tình huống trái ý nghịch lòng.
  4. Mạn tiềm miên (Mānānusaya) là trạng thái liên quan đến việc so sánh bản thân với người khác—dù là cảm thấy mình vượt trội, thấp kém, hay ngang bằng.
  5. Kiến tiềm miên (Diṭṭhānusaya) bao gồm những niềm tin trái ngược với chân lý của Pháp, chẳng hạn như thường kiến (chấp kiến vào bản ngã trường cữu) hoặc đoạn kiến (chấp kiến vào chấm dứt hoàn toàn sau cái chết).
  6. Nghi hoặc tiềm miên (Vicikicchānusaya) là sự sự nghi ngờ hoặc không chắc chắn về Phật, Pháp, Tăng và con đường dẫn đến giải thoát. Nghi hoặc cũng là sự ngờ vực về định lý nhân quả, duyên sinh và những giá trí cố hữu của cuộc sống.
  7. Vô minh tiềm miên (Avijjānusaya) là sự mê mờ, không ý thức bản chất của thực tại, đặc biệt là sự vô minh về Tứ Diệu Đế, tức là không thấy được bản chất của khổ, nhân sanh khổ, sự diệt khổ và con đường đưa đến diệt khổ.

Nói về pháp bản thể, thì dục tiềm miên là thuộc tánh tham; hữu ái tiềm miên cũng là thuộc tánh tham; Sân tiềm miên là thuộc tánh sân; mạn tiềm miên là thuộc tánh mạn; kiến tiềm miên thuộc tánh tà kiến; nghi hoặc tiềm miên là thuộc tánh nghi hoặc; vô minh tiềm miên là thuộc tánh si.

Những tập tánh hay thói quen thường là biểu hiện của những phiền não tiềm miên, rất khó nhận rõ trong một giai đoạn hay hoàn cảnh nào đó.

Mục tiêu cuối cùng trong thực hành Phật giáo là đoạn tận phiền não ngủ ngầm, qua sự tu tập giới, định, tuệ. Đối với phần lớn chúng sanh, phải có công phu tu tập mới có thể áp đảo và đoạn diệt được những phiền não tiềm miên này. Sự đoạn trừ các pháp tiềm miên ở các giai đoạn giác ngộ khác nhau của hành trình giác ngộ và chỉ diệt trừ hoàn toàn bởi đạo quả A la hán.

Tóm lại, việc hiểu và giải quyết những khuynh hướng tiềm ẩn này là rất quan trọng cho sự tiến bộ trên con đường tu tập, vì chúng là nguyên nhân sâu xa của sự tái sinh và khổ đau liên tục.


 Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.