- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Abbot: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Website: chuaphapluan.com
- View Map
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: THẮNG PHÁP PHỔ THÔNG
Bài học ngày 10.5.2024
THẮNG PHÁP TẬP YẾU (ABHIDHAMMATTHASAṄGAHA)
Bài 86. LIỆT KÊ SẮC PHÁP (rūpasamuddesa)
(tiếp theo chú thích về sắc pháp: NHÓM TỨ ĐẠI)
Cattāri mahābhūtāni, catunnañ ca mahābhūtānaṁ upādāya rūpan ti duvidham p’etaṁ rūpaṁ ekādasavidhena sangahaṁ gacchati.
Sắc pháp có hai: Sắc đại chủng và sắc y sinh. Gom chung cả hai được phân làm 11 nhóm.
Kathaṁ?
Như thế nào?
(Loại Thành Phẩm - nipphanna rūpa)
1. Paṭhavīdhātu, āpodhātu, tejodhātu, vāyodhātu bhūtarūpaṁ nāma.
2. Cakkhu, sotaṁ, ghānaṁ, jihvā, kāyo pasādarūpaṁ nāma.
3. Rūpaṁ, saddo, gandho, raso, āpodhātuvajjitaṁ bhūtattaya-sankhātaṁ
phoṭṭhabbaṁ gocararūpaṁ nāma.
4. Itthattaṁ purisattaṁ bhāvarūpaṁ nāma.
5. Hadayavatthu hadayarūpaṁ nāma.
6. Jīvitindriyaṁ jīvitarūpaṁ nāma.
7. Kabaḷīkāro āhāro āhārarūpaṁ nāma.
1. Nhóm Tứ Đại: Địa giới, thủy giới, hoả giới, phong giới
2. Nhóm Thần Kinh: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân
3. Nhóm Đối Cảnh: Sắc, thinh, khí, vị. Riêng cảnh xúc bao gồm ba sắc đại chủng trừ nước (còn lại là đất, lửa, gió)
4. Nhóm Giới Tính: sắc nữ tính và sắc nam tính
5. Nhóm Ý Căn: sắc ý vật
6. Nhóm Sinh Lực: sắc mạng quyền
7. Nhóm Dưỡng Tố: sắc dinh dưỡng
(Loại Thuộc Tánh - anipphanna rūpa)
8. Ākāsadhātu paricchedarūpaṁ nāma.
9. Kāyaviññatti vacīviññatti viññattirūpaṁ nāma.
10. Rūpassa lahutā, mudutā, kammaññatā, viññattidvayaṁ vikārarūpaṁ
nāma.
11. Rūpassa upacayo, santati, jaratā, aniccatā lakkhaṇarūpaṁ nāma.
Jātirūpam eva pan’ettha upacayasantatināmena pavuccati.
8. Nhóm giao giới: sắc chân không
9. Nhóm biểu tri: thân biểu tri và ngữ biểu tri
10. Nhóm linh động: khinh, nhu, đa dụng
11. Nhóm biến tướng: sanh, tiến, dị, diệt
Chú thích
Sự liệt kê sắc pháp theo truyền thống dễ tạo nên ngộ nhận đối với người học.
Nhìn vào “biểu đồ chư pháp”, có tất cả 28 sắc pháp. Không nên hiểu là 28 thực thể riêng biệt. Phải đặc biệt cẩn trọng về điểm nầy.
Nền tãng của vật chất là bốn đại chủng (mahābhūta). Đó là địa đại, thuỷ đại, hoả đại, phong đại. Địa đại là sự chiếm hữu không gian của vật chất như biểu hiện cứng, mềm... Thuỷ đại là sự quến tụ gắn kết của vật chất tạo nên hình tướng. Hoả đại là nhiệt lượng nóng lạnh. Phong đại là sự dịch chuyển như từ trường của hai cực của tất cả vật chất ngay cả một nguyên tử. Từ nền tảng tứ đại tạo nên những hiện tượng vật chất gọi là sắc y sinh (upādārūpa). Có thể tạm thí dụ sắc tứ đại như xi măng gồm xi măng, nước, cát, sỏi… Sắc y sinh như những thứ tạo nên bởi xi măng như đường xá, băng ghế, pho tượng. Hoặc cũng có thể hiểu sắc tứ đại như vàng và sắc y sinh như những thứ trang sức làm bằng vàng.. Có tất cả 24 sắc y sinh cộng với 4 sắc đại chủng thành 28 sắc pháp.
Tất cả sắc pháp cũng được phân thành hai: loại Thành Phẩm (nipphanna rūpa) và loại Thuộc Tánh (anipphanna rūpa).
Loại thành phẩm (nipphanna rūpa) là sắc pháp định hình, thành phẩm chứ không phải là tính cách hay thuộc tính. Ngài Tịnh Sự gọi là “sắc thành tựu”.
Loại thuộc tánh (anipphanna rūpa) là những gì tạo nên đặc tính của vật chất như nhẹ, mềm, thích nghi. Không phải là thực thể cá biệt thí dụ như “sắc dị hay lão hoá” chỉ là một phần trong sự tồn tại của đơn vị vật chất chứ không phải là đơn vị vật chất cá biệt. Ngài Tịnh Sự gọi loại sắc anipphanna rūpa là “sắc phi thành tựu”
Bốn sắc đại chủng (bhūtarūpa) được gọi là nguyên tố (dhātu) mang ý nghĩa là là có tự tánh riêng (sabhāva). Bốn sắc đại chủng luôn có mặt trong tất cả sắc pháp (hay vật chất). Và luôn luôn đi chung, nói cách khác không có vật chất nào thiếu một trong bốn sắc đại chủng.
Địa đại hay nguyên tố đất (paṭhavīdhātu) là sự chiếm hữu không gian qua thể cứng mềm. Chữ paṭhavī nguyên nghĩa là giản nở hay lan rộng vì mang đặc tính chiếm ngự. Địa đại được xem là cơ sở nền tảng cho thủy đại, hoả đại, phong đại. Sự biến hoá của địa đại là nhận chịu. Ba đại còn là là nhân cần thiết. Địa đại có thể cảm nhận qua xúc giác là sự cứng hay mềm quan đụng chạm qua cảm nhận của thân thức.
Thuỷ đại hay nguyên tố nước (āpodhātu) lả sự gắn kết hay quến tụ của các phân tử vật chất nhờ vậy tạo nên hình tướng và không rời rã. Ba đại còn là là nhân cần thiết của thuỷ đại. Theo Thắng Pháp thì thuỷ đại không thể nhận biết bằng ngũ quan mà chỉ có thể biết qua khái niệm của hiểu biết khi các khối vật chất có dạng thức riêng biệt do phân tử gắn kết.
Hoả đại hay nguyên tố lửa (tejodhātu) là nhiệt lượng. Khi nói tới lửa thì người ta nghĩ tới độ nóng. Thực tế thì nóng hay là đều là nhiệt lượng. Nhiệt độ thoải mái cho con người ở 72 độ F (22 độ C) hoặc nhiệt độ làm nước đông đặc là 32 độ F (hay 0 độ C) chỉ là quy ước đo đạt y cứ trên phương diện nào đó gọi là nóng lạnh (do sự thích ứng tự nhiên của cơ thể) hay liên quan tới độ đông của nước. Nhiệt độ “nóng” đối với người Eskimo có thể là rất lạnh đối với người sanh ra và lớn lên ở vùng nhiệt đới. Tất cả đều nằm trong nhiệt lượng. Hoả đại có vai trò như năng lượng (energy) trong vật lý ngày nay và khíến cho vật chất đạt đến mức độ “thành toàn”. Cũng do hoả đại mà vật chất được mềm mại. Xúc giác nhận biết hoả đại qua cảm giác nóng hay lạnh.
Phong đại hay nguyên tố gíó (vāyodhātu) là tác động dịch chuyển, tạo áp lực. Hiện tượng căng phòng (vitthambana) là một đặc tính của phong đại. Vai trò của phong đại là chuyển động trong tất cả hiện tượng vật chất. Ngành vật lý ngày nay xác định rõ tất cả hiện tượng vật chất đều luôn dịch chuyển dù là một khối đá bất động hay một viên kim cương với độ rắn rất cao. Tất cả nguyên tử, đơn vị cực vi của vật chất. luôn mang hiện tượng dịch chuyển. Nhân cần thiết của phong đại là ba đại còn lại. Phong đại có thể cảm nhận qua xúc giác với áp lực mạnh yếu.
(Nên lưu ý là tứ đại trong Phật học bao gồm từ khái niệm bản thể đến cách hiểu thường thức.
Trên phương diện bản thể thì tất cả vật chất từ ngọn núi lớn cho tới hạt bụi li ti đều có bốn sắc đại chủng. Trong giọt nước cũng có hoả đại. Trong hạt bụi cũng có thuỷ đại. Đây là cách hiểu theo sắc pháp thuộc pháp bản thể được đề cập trong Thắng Pháp Abhidhamma.
Trên phương diện thường thức thì đất được hiểu là đại địa bao gồm đất đá, cát, bùn …, nước như ao hồ biển cả.., lửa như lửa bếp lửa rừng.., gió như phong ba bão tố…qua sự cảm nhận bình thường.
Trên phương diện thân quán niệm xứ thì địa đại trong thân thể là những gì thuộc thể rắn cứng mềm thô phù như thịt, gân, xương … thủy đại là những gì thuộc thể lỏng như mồ hôi, nước mắt, máu, mở… hoả đại là những gì thuộc thể ấm nhưng chất ấm tiêu hoá, chất ấm châu thân… phong đại là những gì thuộc thể khí như hơi thở ra vào, hơi khí vận hành trong thân…
Cả ba cách hiểu trên ĐỀU ĐƯỢC TÌM THẤY TRONG PHẬT HỌC, ĐỀU CÓ TRONG TAM TẠNG. Không nên dùng một đoạn kinh văn nào đó để phủ nhận cách hiểu khác biệt.
Cụm từ “tứ đại bất hoà” là cách nói văn vẻ chỉ cho thân bệnh. Cách nói nầy không có trong Tam tạng Pāḷi nhưng có thể chấp nhận ở phương diện nào đó giống như người ta nói “thân thể nóng hay lạnh không bình thường” là bị bệnh. Riêng ý niệm “ngũ ấm xí thạnh” trong khổ để thì không có trong kinh điển Pāḷi mà thay vào đó là “năm thủ uẩn là khổ”)
Được hiểu là sắc đóng vai trò cơ phận sắc pháp cảm nhận cảnh của ngũ quan như thần kinh nhãn cảm nhận cảnh sắc, thần kinh nhĩ cảm nhận cảnh thinh… Ngài Tịnh Sự dịch là “sắc thanh triệt” do chữ Pasāda có ý nghĩa là trong ngần trong lúc Hoà thượng Thích Minh Châu dịch theo bản chữ Hán là “tịnh sắc” cả hai đều liên hệ tới ý nghĩa là loại sắc “tinh tuý” của sự sống. Giáo trình nầy dùng từ vựng “sắc thần kinh” cũng vốn là chữ dịch của Ngài Tịnh Sự trước kia. Chữ thần kinh (nerve) là từ gần nhất trong sinh vật học và y học ngày nay tương đương với pasādarūpa. Sau nầy Ngài Tịnh Sự chọn chữ “thanh triệt” là dịch ngữ hơn là nghĩa.
Đáng chú ý là trong sắc thần kinh (Pasādarūpa) không có “ý vật” là chỗ nương của giác quan thứ sáu (ý thức) mà sắc ý vật được nằm riêng biệt trong bảng liệt kê sắc pháp. Năm sắc thần kinh đóng vai trong “căn và môn” là điều kiện bắt buộc phải có trong khi sắc ý vật không nhất thiết như vậy (…)
Trên phương diện vĩ mô, Thắng Pháp ghi rằng năm sắc thần kinh sanh khởi từ ái chấp đối với năm cảnh. Sự khiếm khuyết của những sắc nầy đối với nhân loại là biểu hiện của thiếu phước hay năng lực ác nghiệp chi phối hoặc do sự lão hoá như mắt mờ, tai điếc của người già. Một ghi nhận khác trong Tam Tạng là mặc dù là sắc pháp nhưng là điều kiện bắt buộc để luyện các thần thông tam muội định. Người khiếm thị hay bị điếc không thê luyện thiên nhãn, thiên nhĩ.
Sắc thần kinh nhãn (Cakkhupasāda) là chỗ nương chính của nhãn thức hay thị giác. Được mô tả có dạng tròn, nhỏ trong đồng tử mắt “giống như đầu con chí” cảm nhận ánh sáng.
Sắc thần kinh nhĩ (Sotapasāda) là chỗ nương chính của nhĩ thức hay thính giác. Được mô tả có dạng như lông con cừu cong tròn nằm trong lỗ tai cảm nhận vi ba âm thanh.
Sắc thần kinh tỷ (ghānapasāda) là chỗ nương chính của tỷ thức hay khứu giác. Được mô tả có dạng như móng chân con dê nằm trong lỗ mũi cảm nhận nhận mùi hương.
Sắc thần kinh thiệt (Jivhāpasāda) là chỗ nương chính của thiệt thức hay vị giác. Được mô tả có dạng như đầu lông con nhím trên lưỡi cảm nhận các vị chua, cay, mặn, ngọt….
Sắc thần kinh thân (Kāyapasāda) là chỗ nương chính của thân thức hay xúc giác. Loại sắc nầy có khắp châu thân ngoại trừ tóc, lông, da chết. Chính sắc thần kinh nầy cảm nhận nóng, lạnh, cứng, mềm… Nên lưu ý là cảm nhận cái đau thốn của mắt khi bụi lọt vào thuộc về xúc giác chứ không phải thị giác hay như khi lưỡi bị đẹn lở cũng thuộc về xúc giác chứ không là vị giác.
(còn tiếp)
Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình