Môn học: THẮNG PHÁP PHỔ THÔNG | THẮNG PHÁP TẬP YẾU (ABHIDHAMMATTHASAṄGAHA) | Bài 114. Mười Hai Xứ (Āyatana)

Friday, 10/01/2025, 19:41 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: THẮNG PHÁP PHỔ THÔNG

THẮNG PHÁP TẬP YẾU (ABHIDHAMMATTHASAṄGAHA)

Bài 114. Mười Hai Xứ (Āyatana)

Dvādasāyatanāni – cakkhāyatanaṃ sotāyatanaṃ ghānāyatanaṃ jivhāyatanaṃ kāyāyatanaṃ manāyatanaṃ rūpāyatanaṃ saddāyatanaṃ gandhāyatanaṃ rasāyatanaṃ phoṭṭhabbāyatanaṃ dhammāyatanaṃ.

Có mười hai xứ: Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ, sắc xứ, thinh xứ, khí xứ, vị xứ, xúc xứ, pháp xứ.

Chú Thích

“Āyatana” có nghĩa đen là “nơi chốn” hoặc “lãnh vực”. Tâm thức sinh khởi và cách mà sự chấp trước dẫn đến khổ đau. Bằng cách tìm hiểu bản chất của “Āyatana”, giúp hiểu rõ hơn về cơ chế của tâm trí và con đường dẫn đến giải thoát.

Mười hai xứ được chia thành hai nhóm: sáu nội xứ (ajjhattikā-āyatana) và sáu ngoại xứ (bāhirā-āyatana). Cả hai nhóm này tạo thành nền tảng của mọi trải nghiệm giác quan. Sáu nội xứ (Ajjhattikā-āyatana) Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ. Sáu ngoại xứ (Bāhirā-āyatana): sắc xứ, thinh xứ, khí xứ, vị xứ, xúc xứ, pháp xứ. Chữ nội và ngoại chỉ là cách nói về tâm và cảnh chứ không chỉ cho không gian. Thí dụ đau bụng thuộc cảnh xúc nhưng vẫn là ngoại xứ.

Năm nội xứ là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và năm ngoại xứ tương tác là sắc, thinh, khí, vị, xúc thuộc căn và cảnh trong lúc ý xứ và pháp xứ phải hiểu khác. Và đây là điểm quan trọng nói lên sự cần thiết của Thắng Pháp trong Phật học.

Ý xứ không phải là sắc ý vật mặc dù có một thứ sắc pháp như vậy.

Có hai lý giải về ý xứ: 1. Ý xứ được hiểu gồm tất cả tâm. 2. Ý xứ được hiểu là ý môn (mano dvāra) chỉ cho tiềm thức (bhavaṅga).

 Pháp xứ (Dhammāyatana) không đồng nghĩa với cảnh pháp (Dhammārammaṇa). Xem phần chú thích về bản thể dưới dây.

Về pháp bản thể sắc xứ (rūpāyatana) là cảnh sắc (rūpārammaṇa). Thinh xứ (Saddāyatana) là cảnh thinh (Saddārammaṇa). Khí xứ (Gandhāyatana) là cảnh khí (Gandhārammaṇa). Vị xứ (Rasāyatana) là cảnh vị (Rasārammaṇa). Xúc xứ (Phoṭṭhabbāyatana) là cảnh xúc (Phoṭṭhabbārammaṇa). Pháp xứ (Dhammāyatana) chỉ bao gồm các tâm sở (Cetasika), các sắc tế (Sukhuma-rūpa) và Niết bàn (Nibbāna). Trong lúc cảnh pháp (Dhammārammaṇa) bao gồm: sắc thần kinh (Pasāda-rūpa), những sắc tế (Sukhuma-rūpa), tất cả tâm (Citta), những tâm sở (Cetasika), Niết bàn (Nibbāna) và chế định (Paññatti).

Sự tương tác giữa nội xứ và ngoại xứ tạo nên kinh nghiệm giác quan, dẫn đến sự phát sinh của thức (viññāṇa) và các quá trình tâm lý khác. Vai trò của “Āyatana” trong Thập nhị nhân duyên trong khuôn khổ của Thập nhị Nhân duyên (Paṭicca Samuppāda), “Āyatana” chiếm một vị trí quan trọng. Chính thông qua sáu căn mà xúc (phassa) phát sinh khi căn bên trong gặp đối tượng bên ngoài tương ứng. Ví dụ, khi mắt tiếp xúc với một hình ảnh, nhãn thức khởi lên, tiếp theo là xúc. Xúc này dẫn đến thọ (vedanā), có thể là lạc thọ, khổ thọ, hoặc bất khổ bất lạc thọ. Quá trình Thập nhị Nhân duyên cho thấy cách mà sự tương tác của “Āyatana” duy trì vòng luân hồi (saṃsāra). Sự vô minh về bản chất vô thường của “Āyatana” dẫn đến tham ái (taṇhā) và sự chấp trước, cuối cùng đưa đến tái sinh và tiếp tục khổ đau. Ứng dụng thực tiễn trong thiền tứ niệm xứ về “Āyatana” rất quan trọng trong các thực hành thiền Phật giáo, đặc biệt là vipassanā (thiền quán). Người hành thiền được khuyến khích quan sát quá trình trải nghiệm giác quan mà không bám chấp hoặc chối bỏ. Bằng cách nhận biết sự tương tác giữa các căn bên trong với các đối tượng bên ngoài, hành giả phát triển sự nhận thức về vô thường (anicca), khổ đau (dukkha) và vô ngã (anattā). Ví dụ, khi một người hành thiền nghe thấy một âm thanh, họ chỉ cần ghi nhận đó là sự tương tác giữa tai và âm thanh, không có cái “tôi” nào trong đó. Sự tách rời này giúp giảm bớt tham ái và sân hận, dẫn đến một sự hiểu biết sâu sắc hơn về thực tại và cuối cùng là sự giải thoát. Đức Phật dạy rằng, giải thoát phát sinh từ việc hiểu rõ bản chất của trải nghiệm giác quan và vượt qua sự chấp trước vào các căn. Trong Samyutta Nikaya, Đức Phật dạy: “Khi một người thấy các căn là vô thường, khổ và vô ngã, người đó phát triển sự nhàm chán. Thông qua sự ly tham, người đó được giải thoát.” Lời dạy này nhấn mạnh rằng bản thân các căn không phải là vấn đề; thay vào đó, chính sự bám chấp và đồng nhất với chúng mới là điều ràng buộc chúng sinh trong khổ đau. Bằng cách nuôi dưỡng chánh niệm và trí tuệ, một người có thể vượt qua ảo tưởng do “Āyatana” tạo ra và đạt được an lạc. Khái niệm “Āyatana” mang lại sự hiểu biết sâu sắc về cách thức nhận thức và nguồn gốc của khổ đau. Bằng cách hiểu rõ mười hai xứ và vai trò của chúng trong Thập nhị Nhân duyên, một người có thể vượt qua thế giới giác quan với sự tỉnh thức và bình thản hơn. Sự hiểu biết này là một bước quan trọng trên con đường giải thoát, cho phép con người vượt qua ảo tưởng của giác quan và nhận ra chân lý tối thượng của sự tồn tại. Thật vậy, “Āyatana” vừa là bản đồ vừa là công cụ dành cho những ai tìm kiếm sự giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.