Môn học: Phạn ngữ Pāli _ BÀI 17. CHIA ĐỘNG TỪ THỜI QUÁ KHỨ

Friday, 08/10/2021, 14:52 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: Phạn ngữ “HỌC PĀLI TRONG 32 BÀI”

Bài học ngày 8.10.2021


BÀI 17. CHIA ĐỘNG TỪ THỜI QUÁ KHỨ

1. Chia động từ thời quá khứ

Thời quá khứ để chỉ cho động thái đã qua.

Thời quá khứ của động từ nguyên mẫu tận cùng bằng A:

Nguyên mẫu: paca = nấu
Số ít
Ngôi thứ ba (So) apaci, paci Nó đã nấu
Ngôi thứ hai (Tvaṃ) apaci, paci Anh đã nấu
Ngôi thứ nhất (Ahaṃ) apaciṃ, paciṃ Tôi đã nấu
Số nhiều
Ngôi thứ ba (Te) apaciṃsu, paciṃsu Họ đã nấu
Ngôi thứ hai (Tumhe) apacittha, pacittha Các anh đã nấu
Ngôi thứ nhất (Mayaṃ) apacimha, pacimha Chúng tôi nấu

Nêu lưu ý khi a- thêm vào không phải là tiền tố phủ định mà chỉ là tuỳ thích thêm vào để biểu thị thời quá khứ.

Những động từ nguyên mẫu tận cùng bằng -nā cũng chia như trên.


Thời quá khứ của động từ nguyên mẫu tận cùng bằng E:

Nguyên mẫu: core = trộm cướp

Số ít
Ngôi thứ ba (So) coresi, corayi Nó đã lấy trộm
Ngôi thứ hai (Tvaṃ) coresi Anh đã lấy trộm
Ngôi thứ nhất (Ahaṃ) coresiṃ, corayiṃ Tôi đã lấy trộm
Số nhiều
Ngôi thứ ba (Te) coresuṃ, corayiṃsu Chúng nó đã lấy trộm
Ngôi thứ hai (Tumhe) corayitha Các anh đã lấy trộm
Ngôi thứ nhất (Mayaṃ) corayimha Chúng tôi đã lấy trộm

2. Một vài câu kiểu mẫu

Số ít Số nhiều

1. Bhūpālo dīpe cari / acari

Nhà vua đã bách bộ trên đảo

Samaṇā dhammaṃ desesuṃ / desayiṃsu

Những vị sa môn đã thuyết pháp

1. Bhūpālā dīpesu cariṃsu / acariṃsu

Những vị vua đã đi lại trên những hòn đảo

Samaṇā dhammaṃ desesuṃ / desayiṃsu

Những vị sa môn đã thuyết pháp

2. Tumhe bhaṇḍāni vikkiṇittha

Các anh đã bán những hàng hoá

Tumhe pupphāni pūjayittha

Các anh đã cúng những bông hoa

2. Tumhe bhaṇḍāni vikkiṇittha

Các anh đã bán những hàng hoá

Tumhe pupphāni pūjayittha

Các anh đã cúng những bông hoa

3. Ahaṃ pabbataṃ āruhiṃ

Tôi đã leo núi

Ahaṃ dīpaṃ jālesiṃ / jālayiṃ

Tôi đã thắp đèn

3. Mayaṃ pabbate āruhimha

Chúng tôi đã leo những ngọn núi

Mayaṃ dīpe jālayimha

Chúng tôi đã thắp những ngọn đèn


PĀLI VUI ĐỂ HỌC

Danh và Thực

Xưng hô là một trong những điểm rất tế nhị trong văn hoá ứng xử. Ngay thời Đức Phật tại thế giữa Tăng chúng cũng có những điều bất cập về mặt nầy nên khi Đức Phật sắp viên tịch đã có di ngôn: “Này Ānanda, nay các vị Tỷ-kheo xưng hô với nhau là Hiền giả (āvuso). Sau khi Ta diệt độ, chớ có xưng hô như vậy. Này Ānanda, vị Tỷ-kheo niên lão hãy gọi vị Tỷ-kheo niên thiếu, hoặc bằng tên, hoặc bằng họ, hoặc bằng tiếng Hiền giả. Vị Tỷ-kheo niên thiếu, hãy gọi vị Tỷ-kheo niên lão là Ðại đức (Bhante)”.

Chữ āvuso được xem là cách gọi người ngang bằng hoặc nhỏ hơn nên người Trung Hoa dịch là hiền giả. Trong Phạm ngữ thì từ nầy cũng là cách gọi thân tình như bạn bè gọi nhau hay trong đạo gọi là “pháp hữu” trong lúc chữ bhante thì là cách gọi với sự tôn kính.

Ngày xưa ở Việt Nam chữ “Đại đức” là từ cao trọng nhưng do một vài lý do mang tánh “chính trị văn phòng” mà Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đưa ra quy định lớn nhất là hoà thượng, rồi tiếp theo là thượng toạ, thấp nhất là … đại đức. Trong lúc Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều bởi văn hoá Phật giáo Trung Quốc thì có một điều trớ trên là chữ hoà thượng là một ngoại lệ. Bên Trung quốc chữ hoà thượng chỉ cho tất cả thầy tu Phật giáo không phân lớn hay nhỏ còn ở Việt Nam bây giờ thì hoà thượng là từ ngữ cao trọng.

Có điều nầy cũng thú vị trong cách xưng hô tại các chùa Bắc Tông ở một số địa phương thì sư chú hay sư bác không hẳn là huynh đệ với sư phụ. Ngoài Bắc chữ Sư Bác gọi những “sa di thâm niên”, còn nhiều nơi chữ sư chú chỉ cho những vị học tăng trẻ. Do vậy tạo nên trường hợp oái oăm là sư chú khác với sư thúc mà sư bác khác với sư bá.

Trong kinh điển Pāli còn có hai danh gọi khác cần lưu ý là chữ “thera” xuất xứ từ chữ thārava nghĩa là vị cao hạ nên đôi khi dịch là trưởng lão. Có nhiều trường hợp vị cao hạ mà chỉ trên bốn mươi tuổi mà gọi là trưởng lão nghe cũng … hơn kỳ.

Một từ khác rất phổ thông trong kinh điển là chữ āyasmant, āyasmā thường được dịch là tôn giả. Đây là chữ rất đẹp nhưng ít khi được dùng ngày nay vì người ta thường có cảm tưởng là là chữ tôn giả chỉ cho các bậc cao tăng đắc đạo … ngày xưa.


PĀLI TRONG NGHI THỨC NHẬT HÀNH

Niệm Ân Đức Đại Từ Đại Bi

Mahākāruṇiko nātho

hitāya sabbapāṇinaṃ

pūretvā pāramī sabbā

patto sambodhimuttamaṃ

etena saccavajjena

hotu me jayamaṅgalaṃ.

Ðấng Ðại Bi cứu khổ,

Vì lợi ích chúng sanh,

Huân tu ba la mật,

Chứng vô thượng chánh giác,

Mong với chân ngôn nầy,

Tựu thành muôn hạnh phúc.

BÀI TẬP 17

Dịch sang tiếng Việt

1. Kassako khettaṃ kasitvā nahāyituṃ udakaṃ otari.

2. Uggaṇhantānaṃ dārakānaṃ dātuṃ ācariyā kusumāni āhariṃsu.

3. Upāsakā āsanehi uṭṭhahitvā dhammaṃ desetuṃ upasaṅkamantaṃ samaṇaṃ vandiṃsu.

4. Nagaresu kammāni katvā vetane labhituṃ ākaṅkhamānā narā gāmehi nikkhamiṃsu.

5. Ācariyo āsanaṃ dussena chādetvā samaṇaṃ nisīdituṃ nimantesi.

6. Kumāro dvāraṃ vivaritvā rukkhamhā oruhante vānare passamāno aṭṭhāsi (stood).

Dịch sang tiếng Pāli

1. Những đứa bé tưới các hoa sen bằng nước và cúng dường Đức Phật

2. Sau khi lãnh lương những người đàn ông đã đi chợ mua hàng hoá

3. Những ngư phủ đã mang những con cá từ biển và đã bán cho những nông dân

4. Nếu anh đi tắm hãy giặt quần áo của các con

5. Những con két và những con qua đã bay lên không trung từ những cây

6. Đừng la rầy các con đang chơi đùa với con chó dưới cội cây


SỬA BÀI TẬP 16

Dịch sang tiếng Việt

Phần nầy đã sửa hoàn tất 6 câu trong buổi học trước

Dịch sang tiếng Pāli

1. Mong nhà vua sẽ cai trị đảo quốc và bảo vệ dân chúng đúng pháp.

2. Hãy để những đứa con chơi trong công viên nhặt lá rơi.

3. Hãy để những nông dân và thương gia tụ tập trong ngự viên.


 

Biên soạn giáo trình: Tỳ kheo Giác Đẳng