- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Abbot: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Website: chuaphapluan.com
- View Map
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Giáo Trình Trung Bộ Kinh – Majjhima Nikāya
Bài học ngày 18/2/2021
110. Tiểu Kinh Mãn Nguyệt
(Cūḷapuṇṇama Sutta)
Cũng như kinh trước đây là pháp thoại được Bậc Đạo Sư giảng trong ngày trăng trò nên gọi là Kinh Mãn Nguyệt. Ngắn hơn bài kinh trước nên bài nầy gọi là tiểu kinh. Trong bài kinh nầy Đức Phật đặc biệt đề cập đến khả năng nhận thức: người ác không thể phân biệt ai thiện, ai ác. Ngược lại, người thiện dễ dàng biết được ai ác, ai thiện. Đức Phật cũng mô tả chi tiết thế nào là người ác và người thiện.
530. Người ác không biết được ai ác, ai thiện
Để hiểu thực tánh của người ác và người thiện thì một người phải vượt khỏi cảnh giới ác xấu. Nếu không thì khó lượng định rõ ràng:
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Pubbārāma (Ðông Viên) Migāramātu pāsāde (Lộc Mẫu Giảng đường).
Lúc bấy giờ trong ngày Bố-tát, ngày trăng tròn, trong đêm trăm rằm, Thế Tôn đang ngồi giữa trời, xung quanh có chúng Tỷ-kheo đoanh vây. Rồi Thế Tôn nhìn chúng Tỷ-kheo đang yên lặng, hết sức yên lặng và bảo các Tỷ-kheo:
-- Này các Tỷ-kheo, một người bất chánh (asappurisa) có thể biết một người bất chánh: "Người bất chánh là vị này", hay không?
-- Bạch Thế Tôn, không biết được.
-- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Này các Tỷ-kheo không thể có sự tình, không thể có sự kiện, một người bất chánh có thể biết một người bất chánh: "Người bất chánh là vị này." Này các Tỷ-kheo, nhưng một người bất chánh có thể biết một người chơn chánh: "Người chơn chánh là vị này" hay không?
-- Bạch Thế Tôn, không biết được.
-- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Này các Tỷ-kheo không thể có sự tình, không thể có sự kiện một người bất chánh có thể biết được một người chơn chánh: "Người chơn chánh là vị này".
531. Thế nào là một người ác
Người ác không đơn thuần chỉ có hành động ác xấu:
Người bất chánh, này các Tỷ-kheo, là người đầy đủ pháp bất chánh, giao du với người bất chánh, suy tư như người bất chánh, tư lường như người bất chánh, nói năng như người bất chánh, hành động như người bất chánh, có tà kiến như người bất chánh, bố thí như người bất chánh.
Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là người bất chánh đầy đủ pháp bất chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người bất chánh bất tín, vô tàm, vô quý, nghe ít, biếng nhác, thất niệm, liệt tuệ. Như vậy, này các Tỷ- kheo, là người bất chánh đầy đủ pháp bất chánh.
Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là người bất chánh giao du với những người bất chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, những vị Bà-la-môn nào bất tín, vô tàm, vô quý, ít nghe, biếng nhác, thất niệm, liệt tuệ, những vị ấy là bạn, là thân hữu với người bất chánh ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người bất chánh giao du với người bất chánh.
Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là người bất chánh suy tư như người bất chánh? Ở đây, này các Tỷ- kheo, người bất chánh suy nghĩ tự làm hại mình, suy nghĩ làm hại người khác, suy nghĩ làm hại cả hai… Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người bất chánh suy tư như người bất chánh.
Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là người bất chánh tư lường như người bất chánh? Ở đây, này các Tỷ- kheo, người bất chánh tư lường tự làm hại mình, tư lường làm hại người, tư lường làm hại cả hai. Như vậy, này các Tỷ-kheo là người bất chánh tư lường như người bất chánh.
Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là người bất chánh nói năng như người bất chánh? Ở đây, này các Tỷ- kheo, người bất chánh nói lời nói láo, nói lời hai lưỡi, nói ác khẩu, nói lời phù phiếm. Như vậy này các Tỷ-kheo, là người bất chánh nói năng như người bất chánh.
Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là người bất chánh hành động như người bất chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người bất chánh sát sanh, lấy của không cho, làm các tà hạnh trong các dục. Như vậy, này các Tỷ-kheo là người bất chánh hành động như người bất chánh.
Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là người bất chánh có tà kiến như người bất chánh? Ở đây, này các Tỷ- kheo, người bất chánh có tà kiến như sau: "Không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có tế tự, không có quả dị thục các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời khác, không có cha, không có mẹ, không có loại hóa sanh. Ở đời, không có những vị Sa-môn, những vị Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh đã tự mình chứng đạt với thượng trí đời này và đời khác, và truyền dạy lại". Như vậy, này các Tỷ- kheo, là người bất chánh có tà kiến như người bất chánh.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người bất chánh bố thí như người bất chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người bất chánh bố thí một cách vô lễ, bố thí không phải tự tay, bố thí không có suy tư kỹ lưỡng, bố thí những vật không cần dùng, bố thí không nghĩ đến tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người bất chánh bố thí như người bất chánh.
Này các Tỷ-kheo, người bất chánh ấy, đầy đủ pháp bất chánh như vậy, giao du với người bất chánh như vậy, suy tư như người bất chánh như vậy, tư lường như người bất chánh như vậy, nói năng như người bất chánh như vậy, hành động như người bất chánh như vậy, có tà kiến như người bất chánh như vậy, bố thí như người bất chánh như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cảnh giới của những người bất chánh.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là cảnh giới của những người bất chánh? Ðịa ngục hay là bàng sanh.
532. Người thiện, trái lại với người ác, biết được ai thiện, ai ác
Người hiền thiện như người đứng cao có thể thấy được cả hai tầng lớp cao thấp:
Này các Tỷ-kheo, một người chơn chánh có thể biết được một người chơn chánh: "Người chơn chánh là vị này" hay không?
-- Thưa biết được, bạch Thế Tôn.
-- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Sự tình này xảy ra là người chơn chánh có thể biết được người chơn chánh: "Người chơn chánh là vị này". Nhưng này các Tỷ-kheo, người chơn chánh có thể biết được người bất chánh: "Người bất chánh là vị này" hay không?
-- Thưa biết được, bạch Thế Tôn.
-- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Này các Tỷ-kheo, có sự tình này là người chơn chánh có thể biết được người bất chánh: "Người bất chánh là vị này".
533. Thế nào là người thiện
Một người thiện trí đúng nghĩa không phải chỉ có hành động thiện mà còn có sự minh mẫn trong nhận thức:
Này các Tỷ-kheo, người chơn chánh đầy đủ Chánh pháp, giao du với các bậc chơn chánh, suy nghĩ như các bậc chơn chánh, tư lường như các bậc chơn chánh, nói năng như bậc chơn chánh, hành động như bậc chơn chánh, có chánh kiến như bậc chơn chánh, bố thí như bậc chơn chánh.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người chơn chánh đầy đủ Chánh pháp? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người chơn chánh có lòng tin, có lòng tàm, có lòng quý, có nghe nhiều, có tinh cần, tinh tấn, có chánh niệm, có trí tuệ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người chơn chánh đầy đủ những Chánh pháp.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người chơn chánh giao du với các bậc chơn chánh? Ở đây, này các Tỷ- kheo, những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào có lòng tin, có lòng tàm, có lòng quý nghe nhiều, tinh cần, tinh tấn, chánh niệm, có trí tuệ, những vị ấy là bạn, là thân hữu của vị chơn chánh ấy. Như vậy, này các Tỷ- kheo, là người chơn chánh giao du với các bậc chơn chánh.
Và này, các Tỷ-kheo, như thế nào là người chơn chánh suy tư như người chơn chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người chơn chánh không suy nghĩ tự làm hại mình, không suy nghĩ làm hại người khác, không suy nghĩ làm hại cả hai. Như vậy, này các Tỷ-kheo là người chơn chánh suy tư như người chơn chánh.
Và này, các Tỷ-kheo, như thế nào là người chơn chánh tư lường như người chơn chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người chơn chánh không tư lường tự làm hại mình, không tư lường làm hại người khác, không tư lường làm hại cả hai. Như vậy, này các Tỷ-kheo là người chơn chánh tư lường như người chơn chánh?
Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là người chơn chánh nói năng như người chơn chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người chơn chánh từ bỏ không nói láo, từ bỏ không nói hai lưỡi, từ bỏ không nói ác khẩu, từ bỏ không nói phiếm luận. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người chơn chánh nói năng như người chơn chánh.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người chơn chánh hành động như người chơn chánh? Ở đây, này các Tỷ- kheo, người chơn chánh từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ làm các tà hạnh trong dâm dục. Như vậy, này các Tỷ-kheo là người chơn chánh hành động như người chơn chánh.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người chơn chánh có chánh kiến như bậc chơn chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người chơn chánh có chánh kiến như sau: "Có bố thí, có lễ hy sinh, có tế tự, có quả dị thục các nghiệp thiện ác, có đời này, có đời khác, có cha, có mẹ, có loại hóa sanh. Ở đời có những vị Sa-môn, những vị Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh, đã tự mình chứng đạt với thượng trí đời này và đời khác, và truyền dạy lại. Như vậy, này các Tỷ-kheo là người chơn chánh có chánh kiến như người chơn chánh.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người chơn chánh bố thí như người chơn chánh? Ở đây, này các Tỷ- kheo, người chơn chánh bố thí một cách lễ độ, bố thí với tự tay, bố thí có suy tư kỹ lưỡng, bố thí những vật cần dùng, bố thí có nghĩ đến tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo là người chơn chánh bố thí như người chơn chánh.
Này các Tỷ-kheo, người chơn chánh ấy, đầy đủ Chánh pháp như vậy, giao du với người chơn chánh như vậy, suy tư như người chơn chánh như vậy, tư lường như người chơn chánh như vậy, nói năng như người chơn chánh như vậy, hành động như người chơn chánh như vậy, có chánh kiến như người như người chơn chánh như vậy, bố thí như người chơn chánh như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cảnh giới của những người chơn chánh. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là cảnh giới của những người chơn chánh? Ðại tánh của chư Thiên hay đại tánh của loài Người.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Thảo luận 1. Trong 8 pháp của bậc chánh nhân (có lòng tin, có lòng tàm, có lòng quý, có nghe nhiều, có tinh cần, tinh tấn, có chánh niệm, có trí tuệ) thì chánh niệm có hẳn phải là tu tập tứ niệm xứ hay chỉ đơn thuần là có ý thức về những gì mình đang làm, đang nói, đang nghĩ? _ do TT Tuệ Siêu giảng giải
Thảo luận 2. Sống biết suy xét biết cái gì nên làm “để lợi mình, lợi người, lợi cả hai” có phải là một biểu lộ của tâm từ (mettā)? _ do TT Tuệ Siêu giảng giải
Thảo luận 3. Sự phân biệt người thiện và người bất thiện có tạo nên thái độ kỳ thị? _ do TT Tuệ Quyền giảng giải
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ kheo Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 110 [tóm tắt]
Tiểu Kinh Mãn Nguyệt
(Cūḷapuṇṇama Sutta)
(M.Iii, 20)
Đức Thế Tôn nêu lên những đặc tính phân biệt người bất chánh với người chân chánh.
Người bất chánh không thể biết được người bất chánh, cũng không thể biết được người chân chánh. Người bất chánh có những đặc tánh sau:
1/ Đầy đủ pháp bất chánh,
2/ Giao du với người bất chánh,
3/ Suy tư tính toán như người bất chánh,
4/ Nói năng như người bất chánh,
5/ Hành động như người bất chánh,
6/ Có tà kiến như người bất chánh,
7/ Bố thí như người bất chánh.
Đầy đủ pháp bất chánh là bảy pháp: bất tín, vô tàm, vô quý, nghe ít, biếng nhác, thất niệm và liệt tuệ. Giao du với người bất chánh là người có những pháp bất chánh nói trên. Suy tư, tính toán như người bất chánh là suy tính tự hại mình, hại người, hại cả hai. Nói năng bất chánh là bốn ác nghiệp của miệng. Hành động bất chánh là ba ác nghiệp của thân. Có tà kiến là không tin luật nhân quả. Bố thí bất chánh là bố thí một cách vô lễ, không tự tay bố thí, không suy tư kỹ lưỡng đối với vật cho và người nhận bố thí, không nghĩ đến tương lai, bố thí vật không cần dùng, đáng quăng bỏ.
Người bất chánh đầy đủ pháp bất chánh, giao du với người bất chánh, suy tư, tính toán, nói năng, hành động bất chánh như vậy, sau khi chết sẽ sanh vào cảnh giới của người bất chánh, đó là địa ngục hay bàng sanh.
Người chân chánh hay ngược lại, có thể biết được ai là người bất chánh, ai là người chân chánh. Người này đầy đủ chánh pháp, giao du với bậc chân chánh, suy nghĩ, tính toán chân chánh, nói năng, hành động chân chánh, có chánh kiến, bố thí chân chánh. Đầy đủ chánh pháp là có lòng tin, có tàm, có quý, nghe nhiều, tinh cần, chánh niệm, trí tuệ. Giao du chân chánh là giao du với những vị có bảy pháp chân chính ấy. Suy tư chân chánh là suy tư đều không hại mình, không hại người, không hại cả hai.
Nói chân chánh là từ bỏ bốn ác nghiệp của miệng. Hành động chân chánh là từ bỏ ba ác nghiệp về thân. Có chánh kiến là biết nhân quả. Bố thí chân chánh là có lễ độ, tự tay cho, suy tư kỹ lưỡng, cho vật cần dùng, bố thí có nghĩ tương lai (tin tưởng kết quả bố thí). Sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy sẽ sanh vào cảnh giới chư Thiên hay loài người.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 110 [dàn ý]
Tiểu Kinh Mãn Nguyệt
(Cūḷapuṇṇama Sutta)
(M.iii, 20)
A. Duyên khởi:
Thế Tôn xác nhận, một người bất chánh không thể biết được một người bất chánh và một người chân chánh.
B. Chánh kinh:
Thế Tôn định nghĩa tám pháp của người bất chánh và nêu rõ dị thục của người bất chánh.
Thế Tôn nói đến tám pháp của người chân chánh và quả dị thục của người chân chánh.
C. Kết luận:
Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 110 [toát yếu]
Tiểu Kinh Mãn Nguyệt
(Cūḷapuṇṇama Sutta)
(M.iii, 20)
I. TOÁT YẾU
Cūlapunnama Sutta - The Shorter Discourse on the Full-moon Night.
The Buddha explains the differences between an "untrue man" and a "true man".
Bản kinh ngắn thuyết vào đêm rằm.
Phật giảng sự khác biệt giữa một người bất chính và một người chân chính.
II. TÓM TẮT
Phật ở Ðông viên, giảng đường Lộc mẫu, vào ngày rằm bố-tát dạy chúng tỷ kheo về chính và bất chính.
1. Người bất chính (asappurisa [1]) không thể biết được một người là bất chính hay chân chính. Người bất chính là kẻ đầy đủ pháp bất chính; giao du với người bất chính, suy tư như người bất chính, nói năng như người bất chính, hành động bất chính, có tà kiến, bố thí một cách bất chính. Ðầy đủ pháp bất chính là: bất tín, vô tàm, vô quý, ít nghe, biếng nhác, thất niệm, liệt tuệ. Giao du với người bất chính là làm bạn với những kẻ có các pháp bất chính như trên. Suy tư bất chính là nghĩ những việc tự hại, hại người, hại cả hai. Nói năng bất chính là nói láo, hai lưỡi, ác khẩu, vô ích. Hành động bất chính là sát sinh, tà hạnh trong các dục. Tà kiến là tuyên bố không có bố thí và quả báo, thiện ác không có kết quả, không có đời này đời sau, các loại hóa sanh, ở đời không có sa môn, bà-la-môn tự chứng thánh trí và truyền dạy lại. Bố thí bất chính là không tự tay bố thí, bố thí một cách vô lễ, không nghĩ kỹ, bố thí vật không cần, bố thí không nghĩ tương lai. Người đầy đủ pháp bất chính như vậy, sau chết sanh vào cảnh giới của kẻ bất chính là địa ngục hoặc bàng sanh.
2. Người chân chính thì có thể biết được một người khác là chân chính hay bất chính. Người chân chính là người đầy đủ chính pháp, giao du các bậc chân chính, suy nghĩ chân chính, có chánh kiến, bố thí chân chính. Và "chân chính" thì ngược lại với những gì là bất chính nói trên.
III. CHÚ GIẢI
1. Asappurisa, Kinh sớ chú thích là pāpapurisa, một kẻ xấu ác.
IV. PHÁP SỐ
(không có)
V. KỆ TỤNG
1. Thế Tôn dạy chúng ta
Về chính và bất chính
Kẻ bất chính khó phân
Người chính với kẻ tà.
2. Bất chính là một người
Ðầy đủ pháp bất chính
Giao du kẻ ác nhân
Nghĩ nói làm đều quấy.
3. Bố thí cũng phi chân
Trong cách cho, vật thí.
Khi thân hoại mạng chung
Ðọa bàng sanh ngạ quỷ.
4. Pháp bất chính nghĩa là
Không tin, không hổ thẹn
Ít nghe và lười biếng
Thất niệm lại ngu đần.
5. Giao du kẻ bất chính
Là thường kết bạn thân
Với những người có đủ
Pháp bất chính như trên.
6. Suy tư cùng toan tính
Ðều tự hại, hại người
Hoặc hại đến cả hai
Là tư duy bất chính.
7. Nói dối, ác, ly gián
Hai lưỡi và phù phiếm
Sát sinh, trộm, tà dâm
Là nói làm bất chính.
8. Bố thí không chính chân
Không tự tay, vô lễ
Ðem cho vật không cần
Không nghĩ đến tương lai.
9. Có tà kiến nghĩa là
Bác bỏ nghiệp và quả
Phủ nhận đời này, sau
Thánh nhân và cha mẹ.
10. Một con người chân chính
Biết kẻ chính người tà
Ðầy đủ pháp chính chân
Giao du người hiền thiện.
11. Tín tàm quý đa văn
Tinh cần niệm và tuệ
Ðây gọi là chính pháp
Theo chính ấy, bạn hiền.
12. Nghĩ chính: không tự hại
Hoặc hại đến mình, người
Nói chính: không hai lưỡi
Lời dối, thô, phù phiếm.
13. Chánh kiến tin nhân quả
Có cha mẹ, thánh nhân
Sự bố thí chính chân:
Tự tay cho vật cần.
14. Một con người chân chính
Ðầy đủ pháp chính chân
Nghĩ, nói, làm đều tốt
Mạng chung sinh cõi lành.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
110. Cūḷapuṇṇamasuttaṃ [Mūla]
91. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā sāvatthiyaṃ viharati pubbārāme migāramātupāsāde. Tena kho pana samayena Bhagavā tadahuposathe pannarase puṇṇāya puṇṇamāya rattiyā bhikkhusaṅghaparivuto abbhokāse nisinno hoti. Atha kho Bhagavā tuṇhībhūtaṃ tuṇhībhūtaṃ bhikkhusaṅghaṃ anuviloketvā bhikkhū āmantesi : ''jāneyya nu kho, bhikkhave, asappuriso asappurisaṃ : 'asappuriso ayaṃ bhavanti? ''no hetaṃ, bhante. ''Sādhu, bhikkhave aṭṭhānametaṃ, bhikkhave, anavakāso yaṃ asappuriso asappurisaṃ jāneyya : 'asappuriso ayaṃ bhavanti. Jāneyya pana, bhikkhave, asappuriso sappurisaṃ : 'sappuriso ayaṃ bhavanti? ''no hetaṃ, bhante. ''Sādhu, bhikkhave etampi kho, bhikkhave, aṭṭhānaṃ anavakāso yaṃ asappuriso sappurisaṃ jāneyya : 'sappuriso ayaṃ bhavanti. Asappuriso, bhikkhave, assaddhammasamannāgato hoti, asappurisabhatti [asappurisabhattī (sabbattha)] hoti, asappurisacintī hoti, asappurisamantī hoti, asappurisavāco hoti, asappurisakammanto hoti, asappurisadiṭṭhi [asappurisadiṭṭhī (sabbattha)] hoti asappurisadānaṃ deti. ''Kathañca, bhikkhave, asappuriso assaddhammasamannāgato hoti? idha, bhikkhave, asappuriso assaddho hoti, ahiriko hoti, anottappī hoti, appassuto hoti , kusīto hoti, muṭṭhassati hoti, duppañño hoti. Evaṃ kho, bhikkhave, asappuriso assaddhammasamannāgato hoti. ''Kathañca, bhikkhave, asappuriso asappurisabhatti hoti? idha, bhikkhave, asappurisassa ye te samaṇabrāhmaṇā assaddhā ahirikā anottappino appassutā kusītā muṭṭhassatino duppaññā tyāssa mittā honti te sahāyā. Evaṃ kho, bhikkhave, asappuriso asappurisabhatti hoti. ''Kathañca, bhikkhave, asappuriso asappurisacintī hoti? idha, bhikkhave, asappuriso attabyābādhāyapi ceteti, parabyābādhāyapi ceteti, ubhayabyābādhāyapi ceteti. Evaṃ kho, bhikkhave, asappuriso asappurisacintī hoti. ''Kathañca, bhikkhave, asappuriso asappurisamantī hoti? idha, bhikkhave, asappuriso attabyābādhāyapi manteti, parabyābādhāyapi manteti, ubhayabyābādhāyapi manteti. Evaṃ kho, bhikkhave, asappuriso asappurisamantī hoti. ''Kathañca, bhikkhave, asappuriso asappurisavāco hoti? idha, bhikkhave, asappuriso musāvādī hoti, pisuṇavāco hoti, pharusavāco hoti , samphappalāpī hoti. Evaṃ kho, bhikkhave, asappuriso asappurisavāco hoti. ''Kathañca, bhikkhave, asappuriso asappurisakammanto hoti? idha , bhikkhave, asappuriso pāṇātipātī hoti, adinnādāyī hoti, kāmesumicchācārī hoti. Evaṃ kho, bhikkhave, asappuriso asappurisakammanto hoti. ''Kathañca, bhikkhave, asappuriso asappurisadiṭṭhi hoti? idha, bhikkhave, asappuriso evaṃdiṭṭhi [evaṃdiṭṭhī (sī. pī.), evaṃdiṭṭhiko (syā. kaṃ.)] hoti : 'natthi dinnaṃ, natthi yiṭṭhaṃ, natthi hutaṃ, natthi sukatadukkaṭānaṃ [sukkaṭadukkaṭānaṃ (sī. pī.)] kammānaṃ phalaṃ vipāko, natthi ayaṃ loko, natthi paro loko, natthi mātā, natthi pitā, natthi sattā opapātikā, natthi loke samaṇabrāhmaṇā sammaggatā [samaggatā (ka.)] sammāpaṭipannā, ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedentīti. Evaṃ kho, bhikkhave, asappuriso asappurisadiṭṭhi hoti. ''Kathañca, bhikkhave, asappuriso asappurisadānaṃ deti? idha, bhikkhave, asappuriso asakkaccaṃ dānaṃ deti, asahatthā dānaṃ deti, acittīkatvā dānaṃ deti, apaviṭṭhaṃ dānaṃ deti anāgamanadiṭṭhiko dānaṃ deti. Evaṃ kho, bhikkhave, asappuriso asappurisadānaṃ deti.
''So, bhikkhave, asappuriso evaṃ assaddhammasamannāgato, evaṃ asappurisabhatti, evaṃ asappurisacintī, evaṃ asappurisamantī, evaṃ asappurisavāco, evaṃ asappurisakammanto, evaṃ asappurisadiṭṭhi evaṃ asappurisadānaṃ datvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā yā asappurisānaṃ gati tattha upapajjati. Kā ca, bhikkhave, asappurisānaṃ gati? nirayo vā tiracchānayoni vā.
92. ''Jāneyya nu kho, bhikkhave, sappuriso sappurisaṃ : 'sappuriso ayaṃ bhavanti? ''evaṃ , bhante. ''Sādhu, bhikkhave ṭhānametaṃ, bhikkhave, vijjati yaṃ sappuriso sappurisaṃ jāneyya : 'sappuriso ayaṃ bhavanti. Jāneyya pana, bhikkhave, sappuriso asappurisaṃ : 'asappuriso ayaṃ bhavanti? ''evaṃ, bhante. ''Sādhu, bhikkhave etampi kho, bhikkhave, ṭhānaṃ vijjati yaṃ sappuriso asappurisaṃ jāneyya : 'asappuriso ayaṃ bhavanti. Sappuriso, bhikkhave, saddhammasamannāgato hoti, sappurisabhatti hoti, sappurisacintī hoti, sappurisamantī hoti, sappurisavāco hoti, sappurisakammanto hoti, sappurisadiṭṭhi hoti sappurisadānaṃ deti. ''Kathañca, bhikkhave, sappuriso saddhammasamannāgato hoti? idha, bhikkhave, sappuriso saddho hoti, hirimā hoti, ottappī hoti, bahussuto hoti, āraddhavīriyo hoti, upaṭṭhitassati hoti, paññavā hoti. Evaṃ kho, bhikkhave, sappuriso saddhammasamannāgato hoti. ''Kathañca, bhikkhave, sappuriso sappurisabhatti hoti? idha, bhikkhave, sappurisassa ye te samaṇabrāhmaṇā saddhā hirimanto ottappino bahussutā āraddhavīriyā upaṭṭhitassatino paññavanto tyāssa mittā honti, te sahāyā. Evaṃ kho, bhikkhave, sappuriso sappurisabhatti hoti. ''Kathañca, bhikkhave, sappuriso sappurisacintī hoti? idha, bhikkhave, sappuriso nevattabyābādhāya ceteti, na parabyābādhāya ceteti, na ubhayabyābādhāya ceteti. Evaṃ kho, bhikkhave, sappuriso sappurisacintī hoti. ''Kathañca, bhikkhave, sappuriso sappurisamantī hoti? idha, bhikkhave, sappuriso nevattabyābādhāya manteti, na parabyābādhāya manteti, na ubhayabyābādhāya manteti. Evaṃ kho, bhikkhave, sappuriso sappurisamantī hoti. ''Kathañca, bhikkhave, sappuriso sappurisavāco hoti? idha, bhikkhave, sappuriso musāvādā paṭivirato hoti, pisuṇāya vācāya paṭivirato hoti, pharusāya vācāya paṭivirato hoti, samphappalāpā paṭivirato hoti. Evaṃ kho, bhikkhave, sappuriso sappurisavāco hoti. ''Kathañca, bhikkhave, sappuriso sappurisakammanto hoti? idha, bhikkhave, sappuriso pāṇātipātā paṭivirato hoti, adinnādānā paṭivirato hoti, kāmesumicchācārā paṭivirato hoti. Evaṃ kho, bhikkhave, sappuriso sappurisakammanto hoti. ''Kathañca , bhikkhave, sappuriso sappurisadiṭṭhi hoti? idha, bhikkhave, sappuriso evaṃdiṭṭhi hoti : 'atthi dinnaṃ, atthi yiṭṭhaṃ, atthi hutaṃ, atthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko, atthi ayaṃ loko , atthi paro loko, atthi mātā, atthi pitā, atthi sattā opapātikā, atthi loke samaṇabrāhmaṇā sammaggatā sammāpaṭipannā ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedentīti. Evaṃ kho, bhikkhave, sappuriso sappurisadiṭṭhi hoti. ''Kathañca, bhikkhave, sappuriso sappurisadānaṃ deti? idha, bhikkhave, sappuriso sakkaccaṃ dānaṃ deti, sahatthā dānaṃ deti, cittīkatvā dānaṃ deti, anapaviṭṭhaṃ dānaṃ deti, āgamanadiṭṭhiko dānaṃ deti. Evaṃ kho, bhikkhave, sappuriso sappurisadānaṃ deti. ''So, bhikkhave, sappuriso evaṃ saddhammasamannāgato, evaṃ sappurisabhatti, evaṃ sappurisacintī, evaṃ sappurisamantī, evaṃ sappurisavāco, evaṃ sappurisakammanto, evaṃ sappurisadiṭṭhi evaṃ sappurisadānaṃ datvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā yā sappurisānaṃ gati tattha upapajjati. Kā ca, bhikkhave, sappurisānaṃ gati? devamahattatā vā manussamahattatā vāti. Idamavoca Bhagavā. Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
Cūḷapuṇṇamasuttaṃ niṭṭhitaṃ dasamaṃ.
Devadahavaggo niṭṭhito paṭhamo.
Tassuddānaṃ :
Devadahaṃ pañcattayaṃ, kinti-sāma-sunakkhattaṃ.
Sappāya-gaṇa-gopaka-mahāpuṇṇacūḷapuṇṇañcāti.
110. Cūḷapuṇṇamasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
91. Evaṃ me sutanti cūḷapuṇṇamasuttaṃ. Tattha tuṇhībhūtaṃ tuṇhībhūtanti yaṃ yaṃ disaṃ anuviloketi, tattha tattha tuṇhībhūtameva. Anuviloketvāti pañcapasādapaṭimaṇḍitāni akkhīni ummīletvā tato tato viloketvā antamaso hatthakukkuccapādakukkuccānampi abhāvaṃ disvā. Asappurisoti pāpapuriso. No hetaṃ, bhanteti yasmā andho andhaṃ viya so taṃ jānituṃ na sakkoti, tasmā evamāhaṃsu. Eteneva nayena ito paresupi vāresu attho veditabbo. Assaddhasamannāgatoti pāpadhammasamannāgato. Asappurisabhattīti asappurisasevano. Asappurisacintīti asappurisacintāya cintako. Asappurisamantīti asappurisamantanaṃ mantetā. Asappurisavācoti asappurisavācaṃ bhāsitā. Asappurisakammantoti asappurisakammānaṃ kattā. Asappurisadiṭṭhīti asappurisadiṭṭhiyā samannāgato. Asappurisadānanti asappurisehi dātabbaṃ dānaṃ. Tyāssa mittāti te assa mittā. Attabyābādhāyapi cetetīti pāṇaṃ hanissāmi, adinnaṃ ādiyissāmi, micchā carissāmi, dasa akusalakammapathe samādāya vattissāmīti evaṃ attano dukkhatthāya cinteti. Parabyābādhāyāti yathā asuko asukaṃ pāṇaṃ hanti, asukassa santakaṃ adinnaṃ ādiyati, dasa akusalakammapathe samādāya vattati, evaṃ naṃ āṇāpessāmīti evaṃ parassa dukkhatthāya cinteti. Ubhayabyābādhāyāti ahaṃ asukañca asukañca gahetvā dasa akusalakammapathe samādāya vattissāmīti evaṃ ubhayadukkhatthāya cintetīti.
Attabyābādhāyapi mantetītiādīsu ahaṃ dasa akusalakammapathe samādāya vattissāmīti mantento attabyābādhāya manteti nāma. Asukaṃ dasa akusalakammapathe samādapessāmīti mantento parabyābādhāya manteti nāma. Aññena saddhiṃ – ‘‘mayaṃ ubhopi ekato hutvā dasa akusalakammapathe samādāya vattissāmā’’ti mantento ubhayabyābādhāya manteti nāma.
Asakkaccaṃ dānaṃ detīti deyyadhammampi puggalampi na sakkaroti. Deyyadhammaṃ na sakkaroti nāma uttaṇḍulādidosasamannāgataṃ āhāraṃ deti, na pasannaṃ karoti. Puggalaṃ na sakkaroti nāma nisīdanaṭṭhānaṃ asammajjitvā yattha vā tattha vā nisīdāpetvā yaṃ vā taṃ vā ādhārakaṃ ṭhapetvā dānaṃ deti. Asahatthāti attano hatthena, na deti, dāsakammakārādīhi dāpeti. Acittikatvāti heṭṭhā vuttanayena deyyadhammepi puggalepi na cittīkāraṃ katvā deti. Apaviddhanti chaḍḍetukāmo hutvā vammike uragaṃ pakkhipanto viya deti. Anāgamanadiṭṭhikoti no phalapāṭikaṅkhī hutvā deti.
Tattha upapajjatīti na dānaṃ datvā niraye upapajjati. Yaṃ pana tena pāpaladdhikāya micchādassanaṃ gahitaṃ, tāya micchādiṭṭhiyā niraye upapajjati. Sukkapakkho vuttapaṭipakkhanayena veditabbo. Devamahattatāti chakāmāvacaradevā. Manussamahattatāti tiṇṇaṃ kulānaṃ sampatti. Sesaṃ sabbattha uttānameva. Idaṃ pana suttaṃ suddhavaṭṭavaseneva kathitanti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Cūḷapuṇṇamasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
Paṭhamavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.