Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || CÓ THỂ LÀM ĐIỀU KHÔNG THỂ - Kinh Đi Đến Tận Cùng Thế Giới (Lokantagamanasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || CÓ THỂ LÀM ĐIỀU KHÔNG THỂ - Kinh Đi Đến Tận Cùng Thế Giới (Lokantagamanasuttaṃ)

Thứ tư, 07/05/2025, 03:35 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 30.4.2025

CÓ THỂ LÀM ĐIỀU KHÔNG THỂ

Kinh Đi Đến Tận Cùng Thế Giới (Lokantagamanasuttaṃ)

Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Thế Giới Dục Trưởng Dưỡng (SN.35.116)

Nếu khổ đau là bản chất phổ quát của toàn bộ kiếp nhân sinh, thì Đức Phật chỉ rõ rằng không ai có thể đi đến chỗ sơn cùng thuỷ tận mà vượt thoát. Vũ trụ bao la. Hằng tỷ năm ánh sáng vẫn không đo được chỗ tận cùng. Kiếp người trăm năm lấy đâu để tìm đến chỗ không còn thế giới hiện tượng vật chất. Thế nhưng có một thế giới nội tại gồm sáu nội xứ và sáu ngoại xứ. Thấu triệt được thì giác ngộ và diệt tận khổ đau. Khả tính giải thoát nằm ở đó.

KINH VĂN

 116. “nāhaṃ, bhikkhave, gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ, daṭṭheyyaṃ {diṭṭheyyaṃ (syā. kaṃ. ka.)}, patteyyanti vadāmi. na ca panāhaṃ, bhikkhave, appatvā lokassa antaṃ dukkhassa antakiriyaṃ vadāmī”ti. idaṃ vatvā bhagavā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ pāvisi. atha kho tesaṃ bhikkhūnaṃ acirapakkantassa bhagavato etadahosi — “idaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho — ‘nāhaṃ, bhikkhave, gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ, daṭṭheyyaṃ, patteyyanti vadāmi. na ca panāhaṃ, bhikkhave, appatvā lokassa antaṃ dukkhassa antakiriyaṃ vadāmī’ti. ko nu kho imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyā”ti?

atha kho tesaṃ bhikkhūnaṃ etadahosi — “ayaṃ kho āyasmā ānando satthu ceva saṃvaṇṇito, sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ. pahoti cāyasmā ānando imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ. yaṃnūna mayaṃ yenāyasmā ānando tenupasaṅkameyyāma; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ etamatthaṃ paṭipuccheyyāmā”ti.

atha kho te bhikkhū yenāyasmā ānando tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā āyasmatā ānandena saddhiṃ sammodiṃsu. sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū āyasmantaṃ ānandaṃ etadavocuṃ —

“idaṃ kho no, āvuso ānanda, bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho — ‘nāhaṃ, bhikkhave, gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ, daṭṭheyyaṃ, patteyyanti vadāmi. na ca panāhaṃ, bhikkhave, appatvā lokassa antaṃ dukkhassa antakiriyaṃ vadāmī’ti. tesaṃ no, āvuso, amhākaṃ acirapakkantassa bhagavato etadahosi — ‘idaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho — nāhaṃ, bhikkhave, gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ, daṭṭheyyaṃ, patteyyanti vadāmi. na ca panāhaṃ, bhikkhave, appatvā lokassa antaṃ dukkhassa antakiriyaṃ vadāmīti. ko nu kho imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyā’ti? tesaṃ no, āvuso, amhākaṃ etadahosi — ‘ayaṃ kho, āvuso, āyasmā ānando satthu ceva saṃvaṇṇito, sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ. pahoti cāyasmā ānando imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ. yaṃnūna mayaṃ yenāyasmā ānando tenupasaṅkameyyāma; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ etamatthaṃ paṭipuccheyyāmā’ti. vibhajatāyasmā ānando”ti.

“seyyathāpi, āvuso, puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato atikkammeva, mūlaṃ atikkammeva, khandhaṃ sākhāpalāse sāraṃ pariyesitabbaṃ maññeyya; evaṃ sampadamidaṃ āyasmantānaṃ satthari sammukhībhūte taṃ bhagavantaṃ atisitvā amhe etamatthaṃ paṭipucchitabbaṃ maññatha {maññetha (pī. ka.)} . so hāvuso, bhagavā jānaṃ jānāti, passaṃ passati — cakkhubhūto, ñāṇabhūto, dhammabhūto, brahmabhūto, vattā, pavattā, atthassa ninnetā, amatassa dātā, dhammassāmī, tathāgato. so ceva panetassa kālo ahosi yaṃ bhagavantaṃyeva etamatthaṃ paṭipuccheyyātha. yathā vo bhagavā byākareyya tathā vo dhāreyyāthā”ti.

“addhāvuso ānanda, bhagavā jānaṃ jānāti, passaṃ passati — cakkhubhūto, ñāṇabhūto, dhammabhūto, brahmabhūto, vattā, pavattā, atthassa ninnetā, amatassa dātā, dhammassāmī, tathāgato. so ceva panetassa kālo ahosi yaṃ bhagavantaṃyeva etamatthaṃ paṭipuccheyyāma. yathā no bhagavā byākareyya tathā naṃ dhāreyyāma. api cāyasmā ānando satthu ceva saṃvaṇṇito, sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ. pahoti cāyasmā ānando imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ. vibhajatāyasmā ānando agaruṃ karitvā”ti.

“tenahāvuso, suṇātha, sādhukaṃ manasi karotha; bhāsissāmī”ti. “evamāvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato ānandassa paccassosuṃ. āyasmā ānando etadavoca —

“yaṃ kho vo, āvuso, bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho — ‘nāhaṃ, bhikkhave, gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ, daṭṭheyyaṃ, patteyyanti vadāmi. na ca panāhaṃ, bhikkhave, appatvā lokassa antaṃ dukkhassa antakiriyaṃ vadāmī’ti, imassa khvāhaṃ, āvuso, bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ ājānāmi. yena kho, āvuso, lokasmiṃ lokasaññī hoti lokamānī — ayaṃ vuccati ariyassa vinaye loko. kena cāvuso, lokasmiṃ lokasaññī hoti lokamānī? cakkhunā kho, āvuso, lokasmiṃ lokasaññī hoti lokamānī. sotena kho, āvuso... ghānena kho, āvuso... jivhāya kho, āvuso, lokasmiṃ lokasaññī hoti lokamānī. kāyena kho, āvuso... manena kho, āvuso, lokasmiṃ lokasaññī hoti lokamānī. yena kho, āvuso, lokasmiṃ lokasaññī hoti lokamānī — ayaṃ vuccati ariyassa vinaye loko. yaṃ kho vo, āvuso, bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho — ‘nāhaṃ, bhikkhave, gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ, daṭṭheyyaṃ, patteyyanti vadāmi. na ca panāhaṃ, bhikkhave, appatvā lokassa antaṃ dukkhassa antakiriyaṃ vadāmī’ti, imassa khvāhaṃ, āvuso, bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāmi. ākaṅkhamānā ca pana tumhe āyasmanto bhagavantaṃyeva upasaṅkamitvā etamatthaṃ paṭipuccheyyātha. yathā vo bhagavā byākaroti tathā naṃ dhāreyyāthā”ti.

 “evamāvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato ānandassa paṭissutvā uṭṭhāyāsanā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ —

“yaṃ kho no, bhante, bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho — ‘nāhaṃ, bhikkhave, gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ, daṭṭheyyaṃ, patteyyanti vadāmi. na ca panāhaṃ, bhikkhave, appatvā lokassa antaṃ dukkhassa antakiriyaṃ vadāmī’ti. tesaṃ no, bhante, amhākaṃ acirapakkantassa bhagavato etadahosi — ‘idaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho — nāhaṃ, bhikkhave, gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ, daṭṭheyyaṃ, patteyyanti vadāmi. na ca panāhaṃ, bhikkhave, appatvā lokassa antaṃ dukkhassa antakiriyaṃ vadāmī’ti. ko nu kho imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyāti? tesaṃ no, bhante, amhākaṃ etadahosi — ‘ayaṃ kho āyasmā ānando satthu ceva saṃvaṇṇito, sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ. pahoti cāyasmā ānando imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ. yaṃnūna mayaṃ yenāyasmā ānando tenupasaṅkameyyāma; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ etamatthaṃ paṭipuccheyyāmā’ti. atha kho mayaṃ, bhante, yenāyasmā ānando tenupasaṅkamimha; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ etamatthaṃ paṭipucchimha. tesaṃ no, bhante, āyasmatā ānandena imehi ākārehi imehi padehi imehi byañjanehi attho vibhatto”ti.

“paṇḍito, bhikkhave, ānando; mahāpañño, bhikkhave, ānando! maṃ cepi tumhe, bhikkhave, etamatthaṃ paṭipuccheyyātha, ahampi taṃ evamevaṃ byākareyyaṃ yathā taṃ ānandena byākataṃ. eso cevetassa attho, evañca naṃ dhāreyyāthā”ti. tatiyaṃ.116. Đi Đến Tận Cùng Thế Giới

“Này chư tỳ khưu, Như Lai nói rằng: không thể nào đi đến tận cùng thế giới bằng cách du hành, không thể biết, thấy hay đạt đến tận cùng ấy bằng sự di chuyển. Nhưng này chư tỳ khưu, Như Lai cũng nói rằng: nếu không đạt đến tận cùng thế giới thì cũng không thể chấm dứt khổ đau được.”

Sau khi nói vậy, bậc Đạo Sư liền từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tịnh thất.

Ngay sau khi Ngài rời đi, chư tỳ khưu suy nghĩ: “Này các Hiền hữu, bậc Đạo Sư vừa rời khỏi chỗ ngồi và đi vào hương thất sau khi tuyên đọc một bài tóm lược ngắn gọn mà không giảng giải chi tiết ý nghĩa. Vậy ai có thể giải thích chi tiết ý nghĩa của bài tóm tắt mà bậc Đạo Sư đã nói vắn tắt?” Rồi họ suy nghĩ: “Tôn giả Ānanda được bậc Đạo Sư khen ngợi và các vị trưởng thượng trong phạm hạnh tôn kính; tôn giả Ānanda có khả năng giải thích chi tiết bài tóm tắt này. Hãy đến hỏi ngài về ý nghĩa ấy.”

Rồi chư tỳ khưu ấy đến gần tôn giả Ānanda, sau khi đảnh lễ chào hỏi, họ ngồi xuống một bên và kể lại những điều đã xảy ra, rồi thưa rằng: “Xin tôn giả Ānanda hoan hỷ giảng giải điều ấy cho chúng tôi.”

[Tôn giả Ānanda đáp:] “Này các Hiền hữu, như một người đang cần lõi cây, đi tìm lõi cây, lang thang để kiếm lõi cây, lại bỏ qua phần gốc rễ và thân cây của một cây lớn vốn có lõi, mà lại tìm lõi nơi cành lá. Các vị cũng như vậy: khi đối diện với bậc Đạo Sư mà các vị lại không hỏi Ngài về ý nghĩa, lại nghĩ rằng nên hỏi tôi. Vì này các Hiền hữu, bậc Đạo Sư biết là biết, thấy là thấy, Ngài đã trở thành tuệ nhãn, đã thành tri kiến, đã thành Chánh pháp, đã thành bậc Thánh, là người tuyên thuyết, trình bày, làm sáng tỏ nghĩa lý, là người trao tặng sự bất tử, là bậc Đạo sư của Pháp, là Như Lai. Đó là lúc các vị nên hỏi Ngài ý nghĩa. Như Ngài giảng giải, các vị nên ghi nhớ như vậy.”

“Thật vậy, này Hiền hữu Ānanda, bậc Đạo Sư biết là biết, thấy là thấy, Ngài đã trở thành tuệ nhãn... là Như Lai. Đáng lẽ lúc ấy chúng tôi nên hỏi Ngài về ý nghĩa và nên ghi nhớ như lời Ngài giảng. Nhưng vì tôn giả Ānanda được bậc Đạo Sư khen ngợi và các vị đồng phạm hạnh tôn kính, tôn giả có thể giải thích rõ ràng chi tiết ý nghĩa của bài kệ tóm tắt ấy. Xin tôn giả đừng ngại ngần mà giảng giải cho chúng tôi.”

“Vậy thì, này các Hiền hữu, hãy lắng nghe kỹ và chú tâm vào điều tôi sẽ nói.”

“Thưa vâng, Hiền hữu,” chư tỳ khưu đáp. Rồi tôn giả Ānanda nói như sau:

“Này các Hiền hữu, khi bậc Đạo Sư rời khỏi chỗ ngồi và đi vào hương thất sau khi nói bài tóm tắt mà không giải thích chi tiết, đó là: ‘Này chư tỳ khưu, Như Lai nói rằng không thể biết, thấy hay đạt đến tận cùng thế giới bằng cách du hành. Nhưng nếu không đạt đến tận cùng thế giới thì không thể chấm dứt khổ đau.’ Tôi hiểu ý nghĩa chi tiết của bài tóm tắt này như sau: cái mà qua đó người ta lãnh hội về thế giới, tư duy về thế giới — điều này được gọi là “thế giới” trong đạo lý của bậc Thánh. Và này các Hiền hữu, cái gì là phương tiện qua đó người ta lãnh hội về thế giới, tư duy về thế giới? Con mắt chính là phương tiện ấy... Tai... Mũi... Lưỡi... Thân... Ý chính là phương tiện qua đó người ta lãnh hội và tư duy về thế giới. Đó là cái được gọi là “thế giới” trong đạo lý của bậc Thánh.”

“Này các Hiền hữu, khi bậc Đạo Sư nói: ‘Không thể đạt đến tận cùng thế giới bằng cách đi lại, nhưng nếu không đạt đến tận cùng thế giới thì cũng không thể chấm dứt khổ đau,’ tôi hiểu ý nghĩa chi tiết là như vậy. Giờ nếu các vị muốn, hãy đến gặp bậc Đạo Sư để hỏi trực tiếp. Như Ngài giảng giải, hãy ghi nhớ như vậy.”

“Vâng, Hiền hữu,” chư tỳ khưu ấy đáp, rồi đứng dậy rời chỗ ngồi, đi đến đảnh lễ bậc Đạo Sư, ngồi xuống một bên và kể lại mọi việc đã xảy ra sau khi Ngài rời đi, rồi thưa: “Bạch Thế Tôn, chúng con đã đến gặp tôn giả Ānanda và hỏi về ý nghĩa ấy. Tôn giả Ānanda đã giảng giải cho chúng con bằng những cách này, lời này, thuật ngữ này.”

“Ānanda là người có trí tuệ, này chư tỳ khưu, Ānanda có đại trí. Nếu các Thầy hỏi Ta về điều này, Ta cũng sẽ giảng giải cho các Thầy giống như Ānanda đã nói. Đó chính là ý nghĩa của lời dạy ấy và các Thầy nên ghi nhớ như vậy.”

CHÚ THÍCH

Theo Sớ Giải, Đức Thế Tôn chỉ nói ngắn gọn vì có dụng ý để chư tỳ khưu nghe được giải thích rộng rãi từ tôn giả Ānanda như vậy sẽ có lợi lạc lâu dài cho chư tỳ khưu.

Chữ loka - thế giới - trong lời dạy cô đọng của Đức Phật mang 2 ý nghĩa: Một là vũ trụ bao la mà sự đo lường bằng hằng tỷ năm ánh sáng cũng không thể đến ranh giới tận cùng. Hai là thế giới nội tại với sáu giác quan có thể thấu triệt bởi hành giả.

Chữ anta - tận cùng – chỉ cho lằn ranh không gian hay khái niệm rốt ráo của thế giới hiện tượng.

Chữ dukkha - khổ đau chỉ cho sự bất toại, bức bách, không như ý.

Cụm từ saṅkhittena uddesa- lời dạy vắn tắt- nghĩa là lời cô đọng, không đi vào chi tiết lý nghĩa.

Cụm từ vitthārena atthaṃ - ý nghĩa chi tiết- là sự phân tích chi tiết ý nghĩa sâu xa.

SỚ GIẢI

116. tatiye lokassāti cakkavāḷalokassa. lokassa antanti saṅkhāralokassa antaṃ. vihāraṃ pāvisīti “mayi vihāraṃ paviṭṭhe ime bhikkhū, imaṃ uddesaṃ ānandaṃ pucchissanti, so ca tesaṃ mama sabbaññutaññāṇena saṃsanditvā kathessati. tato naṃ thomessāmi, mama thomanaṃ sutvā bhikkhū ānandaṃ upasaṅkamitabbaṃ, vacanañcassa sotabbaṃ saddhātabbaṃ maññissanti, taṃ nesaṃ bhavissati dīgharattaṃ hitāya sukhāyā”ti cintetvā saṃkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ avibhajitvāva nisinnāsane antarahito gandhakuṭiyaṃ pāturahosi. tena vuttaṃ “uṭṭhāyāsanā vihāraṃ pāvisī”ti.

Trong bài kinh thứ ba, từ “thế giới” (loka) ở đây chỉ cho cakkavāḷa-loka, tức là thế giới vật lý (vũ trụ). Còn “tận cùng của thế giới” (lokassa antaṃ) ở đây nên được hiểu là tận cùng của thế giới hữu (saṅkhāraloka).

Rồi Đức Thế Tôn bước vào tinh xá, vì Ngài suy nghĩ rằng: “Khi Ta đã vào tinh xá, các Tỷ-kheo này sẽ hỏi Tôn giả A-nan về đoạn pháp ngắn Ta vừa giảng. A-nan sẽ giải thích phù hợp với trí tuệ toàn giác của Ta. Sau đó, Ta sẽ khen ngợi A-nan. Khi nghe lời khen đó, các tỳ khưu sẽ đến thân cận A-nan, lắng nghe và tin tưởng lời dạy của vị ấy. Điều này sẽ mang lại lợi ích lâu dài cho họ.”

Vì vậy, không giảng rộng nội dung, Đức Thế Tôn đã biến mất khỏi pháp tòa và hiện ra tại hương thất (gandhakuṭi), như đoạn kinh ghi: “Rời khỏi chỗ ngồi, Ngài bước vào tinh xá.”

satthu ceva saṃvaṇṇitoti satthārā ca pasattho. viññūnanti idampi karaṇatthe sāmivacanaṃ, paṇḍitehi sabrahmacārīhi ca sambhāvitoti attho. pahotīti sakkoti. atikkammeva mūlaṃ atikkammeva khandhanti sāro nāma mūle vā khandhe vā bhaveyya, tampi atikkamitvāti attho. evaṃsampadamidanti evaṃsampattikaṃ, īdisanti attho. atisitvāti atikkamitvā. jānaṃ jānātīti jānitabbameva jānāti. passaṃ passatīti passitabbameva passati. yathā vā ekacco viparītaṃ gaṇhanto jānantopi na jānāti, passantopi na passati, na evaṃ bhagavā. bhagavā pana jānanto jānāti, passanto passatiyeva. svāyaṃ dassanapariṇāyakaṭṭhena cakkhubhūto. viditakaraṇaṭṭhena ñāṇabhūto. aviparītasabhāvaṭṭhena pariyattidhammapavattanato vā hadayena cintetvā vācāya nicchāritadhammamayoti dhammabhūto. seṭṭhaṭṭhena brahmabhūto. atha vā cakkhu viya bhūtoti cakkhubhūto. evametesu padesu attho veditabbo. svāyaṃ dhammassa vattanato vattā. pavattanato pavattā. atthaṃ nīharitvā nīharitvā dassanasamatthatāya atthassa ninnetā. amatādhigamāya paṭipattiṃ desetīti amatassa dātā.

“Được Bậc Đạo Sư tán thán” nghĩa là được chính Đức Phật ngợi khen.

Từ “viññūnanti” cũng là sở hữu cách với chức năng công cụ, nghĩa là: được tôn kính và đánh giá cao bởi các bậc trí và các vị đồng phạm hạnh.

Từ “pahoti” có nghĩa là: có khả năng, có thể thực hiện, có đủ năng lực.

Câu “vượt qua cả gốc rễ, vượt qua cả các uẩn” mang ý rằng: cốt lõi hay tinh yếu (sāro) nếu có mặt trong gốc rễ (mūla) hay trong các uẩn (khandha), thì vị ấy cũng vượt qua luôn cả những điều đó – nghĩa là đã siêu việt khỏi tất cả điều kiện thuộc về cấu trúc hiện hữu.

Cụm từ “tình trạng như thế này” (evaṃsampadam idaṃ) chỉ một thành tựu đặc biệt đạt được, còn “īdisanti” có nghĩa là: thuộc loại như vậy, có bản chất như thế.

“Tại đây, ‘atisitvā’” có nghĩa là: vượt qua rồi, đã vượt khỏi.

“Biết thì thật sự biết” nghĩa là: biết đúng những gì nên biết, biết như thật về các pháp cần phải biết.

“Thấy thì thật sự thấy” nghĩa là: thấy đúng những gì nên thấy, thấy đúng như thật về bản chất các pháp.

Ví như có người chấp giữ sai lạc, tuy tưởng là biết nhưng không thật sự biết, tuy tưởng là thấy nhưng không thật sự thấy – Đức Phật không như vậy.


Đức Thế Tôn là bậc thực sự biết, thực sự thấy.

Chính vì là bậc lãnh đạo trong sự thấy biết nên Ngài được gọi là “người có mắt” (cakkhubhūto).


Vì có khả năng khiến cho người khác nhận thức rõ ràng nên Ngài được gọi là “người có trí tuệ” (ñāṇabhūto).


Vì có bản chất không sai khác, hoặc vì thuyết giảng pháp thành văn hệ thống (pariyatti-dhamma), hoặc vì pháp được Ngài quán xét trong tâm rồi thuyết ra bằng lời, nên Ngài là “người là Pháp” (dhammabhūto).

Vì ở địa vị tối thượng, nên Ngài là “bậc Phạm chủ” (brahmabhūto).


Hoặc, vì giống như con mắt soi sáng mọi sự, nên Ngài được gọi là “người là con mắt” (cakkhubhūto).

Trong tất cả các cách dùng từ như thế, ý nghĩa nên được hiểu như vừa giải thích.

Ngài là “bậc tuyên thuyết pháp” (vattā), vì Ngài là người đã thuyết giảng Giáo pháp.


Ngài là “bậc khởi vận hành pháp” (pavattā), vì nhờ Ngài mà Giáo pháp vận hành trong đời.

Ngài là “người hiển lộ ý nghĩa” (atthassa ninnetā), vì với năng lực thấy biết như thật, Ngài khéo khai mở ý nghĩa sâu xa trong pháp.

Ngài thuyết giảng con đường đưa đến sự chứng đạt Bất tử (Niết-bàn), nên được gọi là “bậc ban tặng Bất tử” (amatassa dātā).

agaruṃ karitvāti punappunaṃ yācāpentopi hi garuṃ karoti nāma. attano sekkhapaṭisambhidāñāṇe ṭhatvā sinerupādato vālikaṃ uddharamāno viya dubbiññeyyaṃ katvā kathentopi garuṃ karotiyeva nāma. evaṃ akatvā amhe punappunaṃ ayācāpetvā suviññeyyampi no katvā kathehīti vuttaṃ hoti.

yaṃ kho voti yaṃ kho tumhākaṃ. cakkhunā kho, āvuso, lokasmiṃ lokasaññī hoti lokamānīti cakkhuñhi loke appahīnadiṭṭhi puthujjano sattalokavasena lokoti sañjānāti ceva maññati ca, tathā cakkavāḷalokavasena. na hi aññatra cakkhādīhi dvādasāyatanehi tassa sā saññā vā māno vā uppajjati. tena vuttaṃ, “cakkhunā kho, āvuso, lokasmiṃ lokasaññī hoti lokamānī”ti. imassa ca lokassa gamanena anto nāma ñātuṃ vā daṭṭhuṃ vā pattuṃ vā na sakkā. lujjanaṭṭhena pana tasseva cakkhādibhedassa lokassa nibbānasaṅkhātaṃ antaṃ appatvā vaṭṭadukkhassa antakiriyā nāma natthīti veditabbā.

“Agaruṃ karitvā”: Nghĩa là không xem nhẹ, không coi thường. Ngay cả khi bị người khác năn nỉ nhiều lần, vẫn được gọi là “xem trọng”, vì dù bị thỉnh cầu nhiều lần cũng vẫn giữ sự kính trọng. Giống như một người đứng vững trên trí tuệ sơ học và phân tích (sekkha-paṭisambhidā-ñāṇa), rồi nói điều khó hiểu như thể đang lấy cát từ chân núi Tu-di – dù như thế vẫn gọi là “xem trọng” (garuṃ karoti).

Vậy nên, câu nói ở đây có nghĩa: “Đừng bắt chúng tôi phải năn nỉ nhiều lần, đừng nói theo cách khó hiểu quá, mà hãy giảng giải rõ ràng dễ hiểu cho chúng tôi.”

“Yaṃ kho vo” – có nghĩa là: “Cái đó, này chư Hiền, là của các vị.”

“Cakkhunā kho, āvuso, lokasmiṃ lokasaññī hoti lokamānī” – Nghĩa là: “Này chư Hiền, bằng mắt, người ta có nhận thức về thế giới và có sự ngã mạn đối với thế giới.”

Bởi vì phàm phu với tà kiến chưa được đoạn trừ, khi thấy chúng sinh trong thế giới (sattaloka) thì sanh khởi nhận thức rằng ‘đây là thế giới’ và cũng chấp thủ, sinh tâm cho rằng “đây là ta trong thế giới”.

Cũng vậy, khi thấy vũ trụ bao la (cakkavāḷaloka), người phàm cũng khởi nhận thức tương tự.

Bởi vì, ngoài mười hai xứ (dvādasāyatana) như mắt, tai, mũi... không có nơi nào khác mà nhận thức và ngã mạn đối với thế giới có thể khởi lên.

Vì vậy, Đức Phật dạy rằng:

“Này chư Hiền, bằng mắt, người ta nhận biết thế giới và khởi tâm ngã mạn về thế giới.”

Và đối với thế giới này, việc “đi tới tận cùng” – nghĩa là biết được, thấy được, đạt đến tận cùng – là điều không thể làm được bằng thân hành hoặc tri kiến thông thường.

Tuy nhiên, vì bản chất của thế giới là luôn tan hoại (lujjanaṭṭhena), nên nếu không đạt đến tận cùng của thế giới ấy, tức là không đạt đến Niết-bàn – được gọi là “tận cùng” (anta) của thế giới, thì không có sự chấm dứt khổ đau trong vòng luân hồi (vaṭṭadukkha).

Do đó, phải hiểu rằng:

“Nếu chưa đạt đến Niết-bàn – là sự đoạn tận các hành – thì không thể gọi là chấm dứt khổ đau.”

evaṃ pañhaṃ vissajjetvā idāni “sāvakena pañho kathitoti mā nikkaṅkhā ahuvattha, ayaṃ bhagavā sabbaññutaññāṇatulaṃ gahetvā nisinno. icchamānā tameva upasaṅkamitvā nikkaṅkhā hothā”ti uyyojento ākaṅkhamānā panātiādimāha.

imehi ākārehīti imehi kāraṇehi cakkavāḷalokassa antābhāvakāraṇehi ceva saṅkhāralokassa antāpattikāraṇehi ca. imehi padehīti imehi akkharasampiṇḍanehi. byañjanehīti pāṭiyekkākkharehi.

paṇḍitoti paṇḍiccena samannāgato. catūhi kāraṇehi paṇḍito dhātukusalo āyatanakusalo paccayākārakusalo kāraṇākāraṇakusaloti. mahāpaññoti mahante atthe mahante dhamme mahantā niruttiyo mahantāni paṭibhānāni paṭiggaṇhanasamatthatāya mahāpaññāya samannāgato. yathā taṃ ānandenāti yathā ānandena byākataṃ, taṃ sandhāya vuttaṃ. yathā ānandena taṃ byākataṃ, ahampi taṃ evameva byākareyyanti attho.

“Câu hỏi vừa rồi là do một vị đệ tử nêu lên, nên các thầy chớ có nghi ngờ.”


Vì nay Đức Như Lai đang ngồi, giữ lấy cái cân trí tuệ toàn giác, tức đang cân đo bằng trí biết tất cả.


Cho nên, nếu các thầy còn muốn điều gì, thì hãy trực tiếp đến gặp Như Lai, để dứt trừ mọi nghi ngờ – đó là lời khuyến khích mà Ngài muốn nói khi phán ra đoạn bắt đầu bằng: “Ākaṅkhamānā pana…” (Nghĩa là: “Nếu có ai mong muốn…”)

“Imehi ākārehi” nghĩa là: “Với những lý do này” – tức là những lý do không thể đạt đến tận cùng của cakkavāḷa-loka (vũ trụ vật lý) và cũng là những nguyên nhân khiến có thể đạt được tận cùng của saṅkhāra-loka (thế giới các hành hữu vi).

“Imehi padehi”: Tức là “với những từ ngữ này”, được hiểu là các cụm chữ gom lại thành ý nghĩa (akkharasampiṇḍana).

“Byañjanehi”: Nghĩa là “với các chữ cái riêng lẻ” – tức là các âm tiết cụ thể tạo nên từ ngữ (pāṭiyekkākkhara).

Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu

116. III. Thế Giới Dục Công Ðức (S.iv,93)

1) ...

2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng sự tận cùng thế giới không thể biết, không thể thấy, không thể đạt được bằng cách đi đến tận cùng thế giới. Ta cũng không tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, sự chấm dứt đau khổ có thể làm được bằng cách đạt đến sự tận cùng thế giới.

Nói vậy xong, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy, đi vào tịnh xá.

3) Rồi các Tỷ-kheo ấy, sau khi Thế Tôn ra đi không bao lâu, khởi lên tư tưởng sau đây: "Này chư Hiền, Thế Tôn sau khi nói lên lời nói vắn tắt này, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đã đi vào tịnh xá: ‘Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng sự tận cùng thế giới không thể biết, không thể thấy, không thể đạt được bằng cách đi đến tận cùng thế giới. Ta cũng không tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, sự chấm dứt đau khổ có thể làm được bằng cách đạt đến sự tận cùng thế giới’. Lời Thế Tôn tuyên bố vắn tắt này không được phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, ai có thể phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi"?

4) Rồi các Tỷ-kheo ấy lại suy nghĩ như sau: "Tôn giả Ananda được Thế Tôn tán thán, được các bậc đồng Phạm hạnh có trí kính trọng, Tôn giả Ananda có thể phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi lời Thế Tôn tuyên bố vắn tắt này. Chúng ta hãy đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến, hãy hỏi Tôn giả Ananda về ý nghĩa này".

5) Rồi các Tỷ-kheo ấy đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến, nói với Tôn giả Ananda những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên.

6) Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy nói với Tôn giả Ananda:

-- Thưa Hiền giả Ananda, sau khi thuyết giảng lời vắn tắt, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy, đã đi vào tịnh xá: "Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng sự tận cùng thế giới không thể biết, không thể thấy, không thể đạt được bằng cách đi đến tận cùng thế giới. Ta cũng không tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, sự chấm dứt đau khổ có thể làm được bằng cách không đạt đến sự tận cùng thế giới". Thưa Hiền giả, sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, chúng tôi suy nghĩ như sau: "Này chư Hiền, sau khi nói lên lời tuyên bố vắn tắt này cho chúng ta, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy, đã đi vào tịnh xá: ‘Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng sự tận cùng thế giới không thể biết, không thể thấy, không thể đạt được bằng cách đi đến tận cùng thế giới. Ta cũng không tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, sự chấm dứt đau khổ có thể làm được bằng cách đạt đến sự tận cùng thế giới’. Lời tuyên bố vắn tắt này của Thế Tôn, ai có thể phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi?". Rồi thưa Hiền giả, chúng tôi lại suy nghĩ như sau: "Tôn giả Ananda được Thế Tôn tán thán, được các bạn đồng Phạm hạnh có trí kính trọng, Tôn giả Ananda có thể phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi lời tuyên bố vắn tắt này của Thế Tôn. Chúng ta hãy đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến, hãy hỏi Tôn giả Ananda về ý nghĩa này". Mong Tôn giả Ananda hãy phân tích cho.

7) -- Này chư Hiền, ví như một người cần thiết lõi cây, tìm cầu lõi cây, đang đi tìm cầu lõi cây, đứng trước một cây lớn có lõi cây. Người ấy bỏ rễ, bỏ thân cây, nghĩ rằng lõi cây cần phải tìm trong các nhánh cây, lá cây. Cũng vậy, là việc chư Tôn giả làm... Chư Tôn giả đứng trước mặt Thế Tôn, chư Tôn giả lại vượt qua Thế Tôn và nghĩ rằng cần phải hỏi tôi về ý nghĩa này. Nhưng này chư Hiền, Thế Tôn biết những gì cần biết, thấy những gì cần thấy, bậc có mắt, bậc có trí, bậc Pháp giả, bậc Phạm thiên, bậc Thuyết giả, bậc tuyên thuyết, bậc dẫn đến mục đích, bậc đem cho bất tử, bậc Pháp chủ, bậc Như Lai. Nay đã đến thời, chư Hiền hãy đến hỏi Thế Tôn về ý nghĩa này. Thế Tôn giải thích cho chư Hiền như thế nào, hãy như vậy thọ trì.

8) -- Thưa Hiền giả Ananda, chắc chắn Thế Tôn biết những gì cần biết, thấy những gì cần thấy, bậc có mắt, bậc có trí, bậc Pháp giả, bậc Phạm thiên, bậc Thuyết giả, bậc tuyên thuyết, bậc dẫn đến mục đích, bậc đem cho bất tử, bậc Pháp chủ, bậc Như Lai. Nay đã đến thời chúng tôi đến hỏi Thế Tôn về ý nghĩa này. Thế Tôn giải thích cho chúng tôi như thế nào, chúng tôi sẽ như vậy thọ trì. Nhưng Tôn giả Ananda được Thế Tôn tán thán, được các vị đồng Phạm hạnh có trí kính trọng. Tôn giả Ananda có thể giải thích một cách rộng rãi lời tuyên bố vắn tắt này của Thế Tôn chưa được phân tích rộng rãi. Mong Tôn giả Ananda phân tích cho, nếu Tôn giả không cảm thấy phiền phức (agarum katvà).

9) -- Vậy chư Hiền hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, tôi sẽ nói.

-- Thưa vâng, Hiền giả.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Ananda.

10) Tôn giả Ananda nói như sau:

-- Này chư Hiền, sau khi nói lên lời thuyết giảng một cách vắn tắt, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy, đã đi vào tịnh xá: " Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng sự tận cùng thế giới không thể biết, không thể thấy, không thể đạt được bằng cách đi đến tận cùng thế giới. Ta cũng không tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, sự chấm dứt đau khổ có thể làm được bằng cách đạt đến sự tận cùng thế giới". Này chư Hiền, lời tuyên bố vắn tắt này của Thế Tôn không được phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, tôi hiểu một cách rộng rãi như sau:

11) Này chư Hiền, do cái gì trong thế giới, người ta tưởng đến thế giới, người ta kiêu mạn về thế giới, đây gọi là thế giới trong giới luật của bậc Thánh. Và này chư Hiền, do cái gì trong thế giới, người ta tưởng đến thế giới, người ta kiêu mạn về thế giới? Do con mắt, này chư Hiền, trong thế giới, người ta tưởng đến thế giới, người ta kiêu mạn về thế giới. Do tai, này chư Hiền... Do mũi, này chư Hiền... Do lưỡi, này chư Hiền... Do thân, này chư Hiền... Do ý, này chư Hiền, trong thế giới, người ta tưởng đến thế giới, người ta kiêu mạn về thế giới. Ðây gọi là thế giới trong giới luật của bậc Thánh.

12) Này chư Hiền, sau khi nói lên lời thuyết giảng này một cách vắn tắt cho chư Hiền, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy đã đi vào tịnh xá: "Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng sự tận cùng thế giới không thể biết, không thể thấy, không thể đạt được bằng cách đi đến tận cùng thế giới. Ta cũng không tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, sự chấm dứt đau khổ có thể làm được bằng cách đạt đến sự tận cùng thế giới". Này chư Hiền, lời tuyên bố vắn tắt này của Thế Tôn không được phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, tôi hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy. Nhưng nếu muốn, chư Tôn giả hãy đi đến Thế Tôn và hỏi ý nghĩa này. Thế Tôn giải thích như thế nào, hãy như vậy thọ trì.

-- Thưa vâng, Hiền giả.

Các Tôn giả ấy vâng đáp Tôn giả Ananda, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

13) Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

-- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn sau khi nói lên lời thuyết giảng này một cách vắn tắt, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đã đi vào tịnh xá: "Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng... sự tận cùng thế giới". Bạch Thế Tôn, sau khi Thế Tôn ra đi không được bao lâu, chúng con khởi lên ý nghĩ này: "Này chư Hiền, sau khi nói lên lời thuyết giảng này một cách vắn tắt, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy và đã đi vào tịnh xá: ‘Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng... sự tận cùng thế giới’. Lời Thế Tôn tuyên bố vắn tắt này không được phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, ai có thể phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi?"

14) Rồi bạch Thế Tôn, chúng con suy nghĩ như sau: "Tôn giả Ananda được Thế Tôn tán thán, được các bạn đồng Phạm hạnh có trí kính trọng, Tôn giả Ananda có thể phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi lời Thế Tôn tuyên bố vắn tắt này. Chúng ta hãy đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến, hãy hỏi Tôn giả Ananda về ý nghĩa này". Và, bạch Thế Tôn, chúng con đã đi đến Tôn giả Ananda và hỏi Tôn giả Ananda về ý nghĩa này.

15) Bạch Thế Tôn, với những lý do này, với những câu này, với những chữ này, ý nghĩa được Tôn giả Ananda giải thích cho chúng con...

-- Hiền trí, này các Tỷ-kheo, là Ananda. Ðại tuệ, này các Tỷ-kheo, là Ananda! Này các Tỷ-kheo, nếu các Ông có hỏi Ta về ý nghĩa này, Ta cũng trả lời như vậy, như Ananda đã trả lời. Ðây là ý nghĩa của lời nói ấy. Hãy thọ trì như vậy.



Link nội dung: https://chuaphapluan.com/vn/mon-hoc-tuong-ung-bo-co-the-lam-dieu-khong-the-kinh-di-den-tan-cung-the-gioi-lokantagamanasutta-.html

Copyright © 2021 Phap Luan Buddhist Culture Center. All Rights Reserved
Trong tinh thần hoằng pháp độ sanh, tất cả văn bản đều có thể tự do trích thuật phổ biến nhưng xin ghi rõ xuất xứ và đừng tự ý thêm bớt nguyên văn.