![]() |
![]() |
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || CHƯA GIÁC NGỘ THỜI CHƯA GIẢI THOÁT - Kinh Liễu Tri Nội Xứ (Ajjhattikāyatanaparijānanasuttaṃ) Kinh Liễu Tri Ngoại Xứ (Bāhirāyatanaparijānanasuttaṃ) Thứ tư, 07/05/2025, 03:13 GMT+7 Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 28.4.2025
CHƯA GIÁC NGỘ THỜI CHƯA GIẢI THOÁT Kinh Liễu Tri Nội Xứ (Ajjhattikāyatanaparijānanasuttaṃ) Kinh Liễu Tri Ngoại Xứ (Bāhirāyatanaparijānanasuttaṃ) Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Bình An Thoát Các Khổ Ách (SN.35.111&112)
Đau khổ là vấn nạn lớn nhất của kiếp nhân sinh. Trong sự sâu thẳm tận cùng của tư duy, người ta thường hướng đến sự rời bỏ cõi khổ này, để đặt chân tới một cõi cực lạc khác là thoát khổ. Đức Phật dạy sự đau khổ đến từ căn cội của vô minh và ái dục. Chỉ có sự giác ngộ toàn diện mới dẫn đến giải thoát thật sự. Giác ngộ và giải thoát phải được tìm thấy ở chính mỗi cá nhân chứ không phải thế giới bên ngoài. KINH VĂN 111. Kinh Liễu Tri Nội Xứ (Ajjhattikāyatanaparijānanasuttaṃ) Pāli: sotaṃ... ghānaṃ... jivhaṃ... kāyaṃ... manaṃ anabhijānaṃ aparijānaṃ avirājayaṃ appajahaṃ, abhabbo dukkhakkhayāya. (Cũng vậy đối với) tai, mũi, lưỡi, thân và tâm: cakkhuñca kho, bhikkhave, abhijānaṃ parijānaṃ virājayaṃ pajahaṃ bhabbo dukkhakkhayāya ... pe ... jivhaṃ... kāyaṃ... manaṃ abhijānaṃ parijānaṃ virājayaṃ pajahaṃ bhabbo dukkhakkhayāyā”ti. aṭṭhamaṃ. Này chư Tỳ khưu, nếu biết rõ, hiểu trọn vẹn, ly tham, từ bỏ đối với mắt thì đạt đến đoạn tận khổ đau. (Cũng vậy đối với) tai, mũi, lưỡi, thân và ý nếu biết rõ, hiểu trọn vẹn, ly tham, từ bỏ thì đạt đến đoạn tận khổ đau.
112. Kinh Liễu Tri Ngoại Xứ (Bāhirāyatanaparijānanasuttaṃ)
sadde... gandhe... rase... phoṭṭhabbe... dhamme anabhijānaṃ aparijānaṃ avirājayaṃ appajahaṃ, abhabbo dukkhakkhayāya.
rūpe ca kho, bhikkhave, abhijānaṃ parijānaṃ virājayaṃ pajahaṃ bhabbo dukkhakkhayāya. sadde... gandhe... rase... phoṭṭhabbe... dhamme abhijānaṃ parijānaṃ virājayaṃ pajahaṃ bhabbo dukkhakkhayāyā”ti. navamaṃ. Này chư Tỳ khưu, khi biết rõ, hiểu trọn vẹn, làm ly tham, từ bỏ đối với sắc thì đạt đến đoạn tận khổ đau. (Cũng vậy đối với) thinh, khí, vị, xúc và cảnh pháp nếu biết rõ, hiểu trọn vẹn, làm ly tham, từ bỏ, thì đạt đến đoạn tận khổ đau.
Chú Thích Hai bài kinh này mang nội dung tương tự như kinh SN.35.24 abhijānaṃ (biết rõ) / anabhijānaṃ (không biết rõ) đề cập đến khả năng thấu hiểu từng pháp một cách trực tiếp. aparijānaṃ (không hiểu toàn diện) / parijānaṃ (hiểu toàn diện) là liễu tri sự tương quan giữa pháp này với pháp khác. Khổ đau ở đây mang phạm trù rộng lớn của tất cả pháp hữu vi, tức những gì bị vô thường chi phối.
Sớ Giải 105-113. dutiye vedanāsukhadukkhaṃ kathitaṃ, taṃ pana vipākasukhadukkhaṃ vaṭṭati. tatiye dukkhassāti vaṭṭadukkhassa. catutthe lokassāti saṅkhāralokassa. pañcamādīsu yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ khandhiyavagge vuttanayameva. 105–113. Trong bài thứ hai (mục 106), nói về lạc thọ và khổ thọ, điều ấy có thể được hiểu là lạc thọ và khổ thọ thuộc về quả dị thục (vipāka).
Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu 111. VIII. Tuệ Tri (Pajànàti) (S.iv,89) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, do vì không thắng tri, không liễu tri, không ly tham, không từ bỏ mắt nên không thể đoạn tận khổ đau... tai... mũi... lưỡi... thân... Do vì không thắng tri, không liễu tri, không ly tham, không từ bỏ ý nên không thể đoạn tận khổ đau. 8-13) Và này các Tỷ-kheo, do thắng tri, liễu tri, ly tham và từ bỏ mắt nên có thể đoạn tận khổ đau... tai... mũi... lưỡi... thân... Do thắng tri, liễu tri, ly tham và từ bỏ ý nên có thể đoạn tận khổ đau. 112. IX. Tuệ Tri (S.iv,90) 1) ... 2-7) -- Này các Tỷ-kheo, do không thắng tri, không liễu tri, không ly tham, không từ bỏ các sắc nên không thể đoạn tận khổ đau... các tiếng... các hương... các vị... các xúc... Do không thắng tri, không liễu tri, không ly tham, không từ bỏ các pháp nên không thể đoạn tận khổ đau. 8-13) Và này các Tỷ-kheo, do thắng tri, liễu tri, ly tham, từ bỏ các sắc, nên có thể đoạn tận khổ đau... các tiếng... các hương... các vị... các xúc... Do thắng tri, liễu tri, ly tham, từ bỏ các pháp nên có thể đoạn tận khổ đau. |