Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || ĐẠO GIẢI THOÁT - Kinh Bình An Thoát Khổ Ách (Yogakkhemisuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || ĐẠO GIẢI THOÁT - Kinh Bình An Thoát Khổ Ách (Yogakkhemisuttaṃ)

Thứ ba, 22/04/2025, 03:29 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 19.4.2025

ĐẠO GIẢI THOÁT

Kinh Bình An Thoát Khổ Ách (Yogakkhemisuttaṃ)

Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Bình An Thoát Các Khổ Ách (SN.35.104)

Khổ đau được ví như cái ách đè nặng, trói buộc chúng sanh. Con đường thoát khổ là nhận ra bản chất thật của những gì trá hình dưới dạng hạnh phúc. Sáu cảnh khả ái của sáu giác quan nếu không được nhận rõ bản chất thì mãi đeo mang. Đức Phật đã thật sự đạt đến cảnh giới hoàn toàn giải thoát và cũng là bậc tuyên thuyết con đường thoát khổ cứu độ quần sanh. Không buông xả được với vị ngọt của trần cảnh có nghĩa là không nhận thức được hiểm nạn và con đường vượt thoát.

Kinh Văn

104. sāvatthinidānaṃ. “yogakkhemipariyāyaṃ vo, bhikkhave, dhammapariyāyaṃ desessāmi. taṃ suṇātha. katamo ca, bhikkhave, yogakkhemipariyāyo dhammapariyāyo? santi, bhikkhave, cakkhuviññeyyā rūpā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā. te tathāgatassa pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṃ anuppādadhammā. tesañca pahānāya akkhāsi yogaṃ, tasmā tathāgato ‘yogakkhemī’ti vuccati ... pe ... santi, bhikkhave, manoviññeyyā dhammā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā. te tathāgatassa pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṃ anuppādadhammā. tesañca pahānāya akkhāsi yogaṃ, tasmā tathāgato ‘yogakkhemī’ti vuccati. ayaṃ kho, bhikkhave, yogakkhemipariyāyo dhammapariyāyo”ti. paṭhamaṃ”.

Tại Sāvatthī.

[Đức Thế Tôn dạy:]

“Này chư Tỳ khưu, Ta sẽ nói pháp thoại chủ đề ‘người tuyên bố sự tinh tấn nhằm đạt đến giải thoát khổ ách’. Hãy lắng nghe …"

“Này chư Tỳ khưu, thế nào là pháp thoại chủ đề: ‘người tuyên bố sự tinh tấn nhằm đạt đến giải thoát khổ ách?’”

Này chư Tỳ khưu, có những sắc do mắt nhận biết, đáng yêu, dễ chịu, hấp dẫn, vừa lòng, lôi cuốn giác quan, mê hoặc tâm trí. Những sắc ấy đã được Như Lai từ bỏ, chặt tận gốc, nhổ lên như gốc cây thốt nốt, tiêu diệt hoàn toàn, không còn phát sanh trong tương lai nữa. Ngài tuyên bố rằng cần phải tinh tấn để từ bỏ những đối tượng ấy. Vì vậy, Như Lai được gọi là ‘người tuyên bố sự tinh tấn để giải thoát khổ ách’.

“Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, có những tiếng do tai nhận biết… pháp trần do ý nhận biết — đáng yêu, dễ chịu, hấp dẫn, vừa lòng, lôi cuốn giác quan, mê hoặc tâm trí. Những pháp ấy đã được Như Lai từ bỏ, chặt tận gốc, nhổ lên như gốc cây thốt nốt, tiêu diệt hoàn toàn, không còn phát sanh trong tương lai nữa.

Ngài tuyên bố rằng cần phải tinh tấn để từ bỏ những đối tượng ấy.

Vì vậy, Như Lai được gọi là ‘người tuyên bố sự tinh tấn để giải thoát khỏi khổ ách’.

“Này chư Tỳ khưu pháp thoại chủ đề: ‘người tuyên bố sự tinh tấn nhằm đạt đến giải thoát khổ ách’”.

Chú Thích

Yogakkhema thường được xem là đồng nghĩa với A-la-hán quả (arahantship) hoặc Niết-bàn (Nibbāna), được các vị chú giải giảng nghĩa là sự an ổn hay giải thoát khỏi bốn ách phược (yoga), bao gồm:

  1. dục tham (kāmayoga)
  2. ái hữu (bhavayoga)
  3. vô minh (avijjāyoga)
  4. tà kiến (diṭṭhiyoga)

Ngài Bodhi có chú thích về tính cách “chơi chữ” trong “Yogakkhemī” như sau:

Ở đây có một lối chơi chữ (pun) rất tinh tế trong tiếng Pāli, khó mà chuyển ngữ trọn vẹn sang các ngôn ngữ khác.

Về mặt ngữ pháp, “Yogakkhemī” là hình thức cá nhân hóa (tính từ) của danh từ trừu tượng “Yogakkhema”, nghĩa là “người an ổn, thoát khỏi trói buộc”.

Tuy nhiên, chữ “yoga” trong Pāli ngoài nghĩa là “trói buộc” cũng có nghĩa thứ hai là “nỗ lực, sự tinh tấn” – điều này kết nối với câu trong kinh:

“tesañ ca pahānāya akkhāsi yogaṃ” — “Ngài đã chỉ dạy sự tinh tấn để đoạn trừ chúng”.

Về âm thanh, động từ “akkhāsi” (đã dạy, đã chỉ ra) nghe gần giống với gốc “khema” (an ổn), dù chúng không có liên hệ từ nguyên với nhau.

Như vậy, từ “Yogakkhemī” có thể được hiểu theo hai cách:

Ý nghĩa thật: “Người đã giải thoát khỏi trói buộc” (người đạt đến Niết-bàn)

Ý nghĩa ẩn dụ (chơi chữ): “Người tuyên bố (giảng dạy) về nỗ lực tinh tấn”

Tuy nhiên, theo Sớ Giải (Sāratthappakāsinī) thì:

Một người được gọi là yogakkhemī, không chỉ vì người ấy “tuyên bố nỗ lực”, mà vì người ấy đã từ bỏ hoàn toàn dục và tham ái.

Sớ Giải

 104. yogakkhemivaggassa paṭhame yogakkhemipariyāyanti catūhi yogehi khemino kāraṇabhūtaṃ. dhammapariyāyanti dhammakāraṇaṃ. akkhāsi yoganti yuttiṃ kathesi. tasmāti kasmā? kiṃ akkhātattā, udāhu pahīnattāti? pahīnattā. na hi akkhānena yogakkhemi nāma hoti.

104. Trong bài kinh đầu của Phẩm Yogakkhemi:

“Yogakkhemipariyāya” có nghĩa là:

Là pháp dẫn đến sự an ổn khỏi các trói buộc (giải thoát khỏi bốn loại ách phược – (yoga), tức là nền tảng dẫn đến trạng thái "không còn bị trói buộc" (khemino).

“Dhammapariyāya” là pháp thoại được thuyết giảng nhằm làm sáng tỏ lý do hoặc nguyên nhân (kāraṇa) của các pháp.

“Akkhāsi yoga” có nghĩa là: Đức Phật trình bày rõ (kathesi) con đường hay sự hợp lý (yutti) dẫn đến việc đoạn tận các trói buộc.

“Tasmā ti kasmā?” — “Vì vậy, tại sao?”. Câu hỏi được đặt ra:

Có phải vì Ngài thuyết giảng (akkhātattā) nên được gọi là bậc an ổn khỏi trói buộc? Hay là vì Ngài đã đoạn tận các trói buộc (pahīnattā)?

Trả lời: Là vì Ngài đã đoạn tận (pahīnattā) khổ ách. Bởi vì, chỉ nhờ sự thuyết giảng (akkhāna) thôi thì không thể trở thành bậc giải thoát khỏi khổ ách (yogakkhemi).

Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu

Phần Ba - Năm Mươi Kinh Thứ Ba

I. Phẩm An Ổn, Khỏi Các Khổ Ách

104. I. Người Ðược An Ổn, Khỏi Các Khổ Ách (S.iv,85)

1) ...

2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông pháp môn đưa đến an ổn, khỏi các khổ ách, pháp môn đúng pháp. Hãy lắng nghe.

3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp môn đưa đến an ổn, khỏi các khổ ách?

4-8) Này các Tỷ-kheo, có những sắc do mắt nhận biết khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Những sắc ấy đã được Như Lai đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Ðể đoạn tận chúng, Như Lai tuyên bố cái ách. Do vậy, Như Lai được gọi là vị đã được an ổn, khỏi các khổ ách... có những tiếng... có những hương... có những vị... có những xúc...

9) Này các Tỷ-kheo, có những pháp do ý nhận biết khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Những pháp ấy đã được Như Lai đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Ðể đoạn tận chúng, Như Lai tuyên bố cái ách. Do vậy, Như Lai được gọi là vị đã được an ổn, khỏi các khổ ách.

10) Này các Tỷ-kheo, đây là pháp môn đưa đến an ổn, khỏi các khổ ách, là pháp môn đúng pháp.



Link nội dung: https://chuaphapluan.com/vn/mon-hoc-tuong-ung-bo-dao-giai-thoat-kinh-binh-an-thoat-kho-ach-yogakkhemisutta-.html

Copyright © 2021 Phap Luan Buddhist Culture Center. All Rights Reserved
Trong tinh thần hoằng pháp độ sanh, tất cả văn bản đều có thể tự do trích thuật phổ biến nhưng xin ghi rõ xuất xứ và đừng tự ý thêm bớt nguyên văn.