![]() |
![]() |
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || HOÁ GIẢI DỤC VỌNG - Kinh Bhāradvāja (Bhāradvājasuttaṃ) Friday, 09/05/2025, 04:25 GMT+7 Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA Bài học ngày 7.5.2025
122. Những Pháp Trói Buộc (Giống như kinh 109, nhưng được trình bày qua sáu căn ngoại trần — tức là sáu đối tượng bên ngoài: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Đoạn này nhấn mạnh rằng không chỉ qua sáu căn nội (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), mà qua sáu căn ngoại trần — nếu không tỉnh thức — người ta có thể bị ràng buộc, dính mắc vào vòng luân hồi.
123. Những Pháp Có Thể Chấp Thủ (Giống như kinh 110, nhưng cũng được trình bày theo sáu căn ngoại trần.) Tương tự như trên, các đối tượng của sáu căn trở thành cái để chấp thủ nếu tâm không có chánh niệm và trí tuệ.
III. GIA CHỦ 124. Tại Vesālī 1. Một thuở, Đức Thế Tôn ngự tại Vesālī trong Đại Lâm, tại giảng đường mái nhọn. Khi ấy, cư sĩ Ugga của Vesālī đến gần Đức Thế Tôn... và thưa với Ngài... (Câu hỏi và câu trả lời hoàn toàn giống như kinh 118.)
125. Trong Xứ Vajji 1. Một thuở, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Vajji, tại Hatthigāma. Khi ấy, cư sĩ Ugga của Hatthigāma đến gần Đức Thế Tôn… và thưa với Ngài... (Nội dung giống như kinh 118.)
126. Tại Nāḷandā 1. Một thuở, Đức Thế Tôn ngự tại Nāḷandā, trong vườn xoài của cư sĩ Pāvārika. Khi ấy, cư sĩ Upāli đến gần Đức Thế Tôn… và thưa với Ngài... (Nội dung giống như kinh 118.)
HOÁ GIẢI DỤC VỌNG Kinh Bhāradvāja (Bhāradvājasuttaṃ) Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Gia Chủ (SN.35.127) Dục vọng đối với người khác phái, nhất là nhục dục, luôn là chi phối lớn đối với người xuất gia đặc biệt là những vị trẻ tuổi. Những phương cách tu tập thực tiễn giúp chế ngự bản năng này được Đức Phật dạy trong rất nhiều trường hợp. Từ quan niệm trong sáng đến sự quán niệm về thân và sự phòng hộ sáu căn đều cần nỗ lực của mỗi cá nhân. Phải thành thực ý thức về tập tánh và kiên tâm hành trì mới có khả năng vượt qua thử thách lớn này.
KINH VĂN 127. ekaṃ samayaṃ āyasmā piṇḍolabhāradvājo kosambiyaṃ viharati ghositārāme. atha kho rājā udeno yenāyasmā piṇḍolabhāradvājo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā piṇḍolabhāradvājena saddhiṃ sammodi. sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. ekamantaṃ nisinno kho rājā udeno āyasmantaṃ piṇḍolabhāradvājaṃ etadavoca — “ko nu kho, bho bhāradvāja, hetu ko paccayo yenime daharā bhikkhū susū {susu (sī. ka.)} kāḷakesā bhadrena yobbanena samannāgatā paṭhamena vayasā anikīḷitāvino kāmesu yāvajīvaṃ paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ caranti, addhānañca āpādentī”ti? “vuttaṃ kho etaṃ, mahārāja, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena — ‘etha tumhe, bhikkhave, mātumattīsu mātucittaṃ upaṭṭhapetha, bhaginimattīsu bhaginicittaṃ upaṭṭhapetha, dhītumattīsu dhītucittaṃ upaṭṭhapethā’ti. ayaṃ kho, mahārāja, hetu, ayaṃ paccayo yenime daharā bhikkhū susū kāḷakesā bhadrena yobbanena samannāgatā paṭhamena vayasā anikīḷitāvino kāmesu yāvajīvaṃ paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ caranti, addhānañca āpādentī”ti. “lolaṃ {loḷaṃ (syā. kaṃ.)} kho, bho bhāradvāja, cittaṃ. appekadā mātumattīsupi lobhadhammā uppajjanti, bhaginimattīsupi lobhadhammā uppajjanti, dhītumattīsupi lobhadhammā uppajjanti. atthi nu kho, bho bhāradvāja, añño ca hetu, añño ca paccayo yenime daharā bhikkhū susū kāḷakesā... pe... addhānañca āpādentī”ti? “vuttaṃ kho etaṃ, mahārāja, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena — ‘etha tumhe, bhikkhave, imameva kāyaṃ uddhaṃ pādatalā adho kesamatthakā tacapariyantaṃ pūraṃ nānappakārassa asucino paccavekkhatha — atthi imasmiṃ kāye kesā lomā nakhā dantā taco maṃsaṃ nhāru {nahāru (sī. syā. kaṃ. pī.)} aṭṭhi aṭṭhimiñjaṃ {aṭṭhimiñjā (sī.)} vakkaṃ hadayaṃ yakanaṃ kilomakaṃ pihakaṃ papphāsaṃ antaṃ antaguṇaṃ udariyaṃ karīsaṃ pittaṃ semhaṃ pubbo lohitaṃ sedo medo assu vasā kheḷo siṅghāṇikā lasikā muttan’ti. ayampi kho, mahārāja, hetu, ayaṃ paccayo yenime daharā bhikkhū susū kāḷakesā... pe... addhānañca āpādentī”ti. “ye te, bho bhāradvāja, bhikkhū bhāvitakāyā bhāvitasīlā bhāvitacittā bhāvitapaññā, tesaṃ taṃ sukaraṃ hoti. ye ca kho te, bho bhāradvāja, bhikkhū abhāvitakāyā abhāvitasīlā abhāvitacittā abhāvitapaññā, tesaṃ taṃ dukkaraṃ hoti. appekadā, bho bhāradvāja, asubhato manasi karissāmīti {manasi karissāmāti (sī. syā. kaṃ. pī.)} subhatova {subhato vā (sī.), subhato ca (syā. kaṃ.)} āgacchati. atthi nu kho, bho bhāradvāja, añño ca kho hetu añño ca paccayo yenime daharā bhikkhū susū kāḷakesā... pe... addhānañca āpādentī”ti? “vuttaṃ kho etaṃ, mahārāja, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena — ‘etha tumhe, bhikkhave, indriyesu guttadvārā viharatha. cakkhunā rūpaṃ disvā mā nimittaggāhino ahuvattha, mānubyañjanaggāhino. yatvādhikaraṇamenaṃ cakkhundriyaṃ asaṃvutaṃ viharantaṃ abhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssaveyyuṃ, tassa saṃvarāya paṭipajjatha. rakkhatha cakkhundriyaṃ; cakkhundriye saṃvaraṃ āpajjatha. sotena saddaṃ sutvā... pe... ghānena gandhaṃ ghāyitvā... jivhāya rasaṃ sāyitvā... kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā... manasā dhammaṃ viññāya mā nimittaggāhino ahuvattha, mānubyañjanaggāhino. yatvādhikaraṇamenaṃ manindriyaṃ asaṃvutaṃ viharantaṃ abhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssaveyyuṃ, tassa saṃvarāya paṭipajjatha. rakkhatha manindriyaṃ; manindriye saṃvaraṃ āpajjathā’ti. ayampi kho, mahārāja, hetu ayaṃ paccayo yenime daharā bhikkhū susū kāḷakesā bhadrena yobbanena samannāgatā paṭhamena vayasā anikīḷitāvino kāmesu yāvajīvaṃ paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ caranti, addhānañca āpādentī”ti. “acchariyaṃ, bho bhāradvāja; abbhutaṃ, bho bhāradvāja! yāva subhāsitaṃ cidaṃ {yāva subhāsitamidaṃ (sī.)}, bho bhāradvāja, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena. esova kho, bho bhāradvāja, hetu, esa paccayo yenime daharā bhikkhū susū kāḷakesā bhadrena yobbanena samannāgatā paṭhamena vayasā anikīḷitāvino kāmesu yāvajīvaṃ paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ caranti, addhānañca āpādentīti. ahampi kho, bho {ahampi bho (sī. pī.)} bhāradvāja, yasmiṃ samaye arakkhiteneva kāyena, arakkhitāya vācāya, arakkhitena cittena, anupaṭṭhitāya satiyā, asaṃvutehi indriyehi antepuraṃ pavisāmi, ativiya maṃ tasmiṃ samaye lobhadhammā parisahanti. yasmiñca khvāhaṃ, bho bhāradvāja, samaye rakkhiteneva kāyena, rakkhitāya vācāya, rakkhitena cittena, upaṭṭhitāya satiyā, saṃvutehi indriyehi antepuraṃ pavisāmi, na maṃ tathā tasmiṃ samaye lobhadhammā parisahanti. abhikkantaṃ, bho bhāradvāja; abhikkantaṃ, bho bhāradvāja! seyyathāpi, bho bhāradvāja, nikkujjitaṃ {nikujjitaṃ (pī.)} vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya, cakkhumanto rūpāni dakkhantīti; evamevaṃ bhotā bhāradvājena anekapariyāyena dhammo pakāsito. esāhaṃ, bho bhāradvāja, taṃ bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca, bhikkhusaṅghañca. upāsakaṃ maṃ bhavaṃ bhāradvājo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatan”ti. catutthaṃ. 1. Một thuở, Tôn giả Piṇḍola Bhāradvāja đang trú tại Kosambī, trong vườn Ghosita. Khi ấy, vua Udena đến gặp Tôn giả Piṇḍola Bhāradvāja, chào hỏi thân mật. Sau khi chào hỏi và nói chuyện xã giao xong, vua ngồi xuống một bên và thưa: 2. “Tôn giả Bhāradvāja, do nhân gì, duyên gì mà các vị Tỷ-kheo trẻ tuổi, tóc còn đen, đang ở thời thanh xuân, chưa từng đắm mình trong dục lạc, lại có thể sống phạm hạnh trọn vẹn và trong sạch suốt đời mà không gián đoạn như vậy?” 3. “Tâu đại vương, điều này đã được đức Thế Tôn – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, bậc biết và thấy – dạy rằng: ‘Này các Tỳ khưu, đối với phụ nữ lớn tuổi đủ làm mẹ mình, hãy khởi tưởng là mẹ; đối với phụ nữ ngang tuổi mình, hãy khởi tưởng là chị hoặc em gái; đối với phụ nữ trẻ hơn đủ làm con gái mình, hãy khởi tưởng là con gái.’ Đây là một nhân và duyên, tâu đại vương, khiến các vị Tỳ khưu trẻ tuổi… sống phạm hạnh trọn đời và không gián đoạn.” 4. “Tâm thật phóng túng, Tôn giả Bhāradvāja. Đôi khi dục tưởng vẫn khởi lên đối với cả phụ nữ lớn tuổi như mẹ, hoặc ngang tuổi chị em, hoặc trẻ như con gái. Có nhân duyên nào khác khiến các Tỳ khưu trẻ ấy… sống phạm hạnh trọn đời và không gián đoạn không?” 5. “Tâu đại vương, đức Thế Tôn đã dạy rằng: ‘Này các Tỳ khưu, hãy quán xét thân này từ dưới lên: từ bàn chân đến đỉnh đầu, được bọc trong lớp da, đầy các vật bất tịnh như: tóc đầu, lông thân, móng tay, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, màng phổi, lá lách, phổi, ruột, màng treo ruột, đồ trong dạ dày, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, dầu mỡ, nước miếng, nước mũi, chất nhờn trong khớp và nước tiểu.’ Đây cũng là một nhân và duyên, tâu đại vương, khiến các vị Tỳ khưu trẻ ấy… sống phạm hạnh trọn đời và không gián đoạn.” 6. “Điều này dễ đối với những Tỳ khưu có thân phát triển, giới phát triển, tâm phát triển và trí tuệ phát triển. Nhưng thật khó đối với những ai chưa phát triển đầy đủ thân, giới, tâm và tuệ. Đôi khi, tuy khởi niệm quán thân là bất tịnh, người ta vẫn thấy thân là khả ái. Vậy có nhân duyên nào khác khiến các Tỳ khưu trẻ ấy… sống phạm hạnh trọn đời và không gián đoạn không?” 7. “Tâu đại vương, đức Thế Tôn đã dạy rằng: ‘Này các Tỳ khưu, hãy sống giữ gìn các căn. Khi thấy sắc bằng mắt, chớ nắm lấy tướng chung hay tướng riêng. Vì nếu mắt không được hộ trì, các pháp bất thiện như tham ái và sân hận có thể xâm nhập. Hãy thực hành sự hộ trì mắt, giữ gìn và chế ngự căn mắt. Khi nghe âm thanh bằng tai… ngửi mùi bằng mũi… nếm vị bằng lưỡi… xúc chạm bằng thân… nhận biết pháp bằng ý, cũng chớ nắm lấy tướng chung hay tướng riêng. Vì nếu ý không được hộ trì, các pháp bất thiện có thể xâm nhập. Hãy giữ gìn và chế ngự căn ý.’ Đây cũng là một nhân và duyên, tâu đại vương, khiến các vị Tỳ khưu trẻ ấy… sống phạm hạnh trọn đời và không gián đoạn.” 8. “Thật kỳ diệu, Tôn giả Bhāradvāja! Thật hiếm có, Tôn giả Bhāradvāja! Những lời này đã được đức Thế Tôn – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác – tuyên thuyết thật rõ ràng. Quả thật, đây là nhân duyên khiến các vị Tỳ khưu trẻ tuổi, tóc còn đen, đang ở tuổi thanh xuân, chưa từng đắm nhiễm dục lạc, có thể sống phạm hạnh trọn vẹn suốt đời mà không gián đoạn. Ngay như trẫm, khi vào hậu cung mà không giữ gìn thân, khẩu, ý, không có chánh niệm, không hộ trì các căn, thì dục tưởng dễ khởi mạnh mẽ. Nhưng khi vào hậu cung với thân khẩu ý hộ trì, có chánh niệm và chế ngự các căn, thì dục tưởng không còn chi phối mãnh liệt như vậy.” 9. “Thật tuyệt vời, Tôn giả Bhāradvāja! Thật tuyệt vời! Tôn giả đã làm sáng tỏ Giáo Pháp bằng nhiều cách – như người dựng đứng lại vật bị lật ngửa, chỉ đường cho người lạc, soi sáng nơi tối tăm bằng ngọn đèn cho người có mắt thấy rõ. Tôn giả Bhāradvāja, từ nay trở đi, xin Ngài hãy xem trẫm là cư sĩ đã quy y Phật, Pháp và Tăng suốt đời.”
CHÚ THÍCH Những điểm cần chú thích có thể tìm thấy trong bản dịch sớ giải dưới đây.
SỚ GIẢI Piṇḍolo: Gọi là “Piṇḍolo” vì thọ giới xuất gia với mục đích tìm kiếm thức ăn. Ngài là một vị Bà-la-môn đã già, thấy chư Tăng được cúng dường nên xuất gia. Ngài mang một cái bát sọ lớn, dùng để uống cháo, ăn bánh, ăn cơm. Khi người ta bạch lại với đức Phật về thói quen ấy, Ngài không cho phép sử dụng loại bát ấy nữa. Từ đó, Piṇḍolo để bát úp dưới sàn và dùng bằng cách kéo lê làm mòn khiến bình bát nhỏ lại. Cuối cùng, đức Phật lại cho phép dùng bình bát ấy. Về sau, nhờ tu tập phát triển nội tâm, ngài chứng quả A-la-hán. Vì xuất gia để có thực phẩm nên được gọi là Piṇḍolo và do thuộc dòng họ Bhāradvāja nên gọi đầy đủ là Piṇḍola Bhāradvāja. “Upasaṅkamī” – vị vua đến gần: Một hôm, sau khi khất thực và thọ thực, ngài đến tịnh xá bên sông Gaṅgā thuộc vườn của vua Udena để trú mát trong giờ trưa. Vua Udena, sau bảy ngày uống rượu, cho người dọn vườn và vào nghỉ trên bệ đá. Một nữ hầu ngồi dưới xoa chân cho vua. Khi vua ngủ, các vũ nữ thấy vậy bèn rút lui, đi lang thang trong vườn, thấy Tôn giả thì lặng lẽ ngồi xuống và được ngài thuyết pháp phù hợp căn cơ. Nữ hầu làm vua thức dậy. Vua hỏi các cô gái đâu, được trả lời rằng họ đang vây quanh một sa môn. Vua tức giận, định sai đàn kiến lửa (kipillikā) cắn chết ngài, nhưng khi kéo tổ kiến xuống, nó rơi trúng đầu vua khiến thân thể đau đớn như bị thiêu. Tôn giả biết tâm vua bất thiện nên bay lên không trung. Các cung nữ không vui, than phiền hành vi vua đối với vị xuất gia. Vua nhận ra lỗi lầm, hỏi người giữ vườn và dặn nếu Tôn giả đến nữa thì phải báo ngay. Vài ngày sau, ngài lại đến. Người giữ vườn báo vua và vua dẫn theo các quan đại thần đến gặp ngài. Vì thế nói rằng: “vua đến gần” (upasaṅkamī). “Anikīḷitāvino kāmesu” – tức là những vị chưa từng chơi đùa với các dục. Những ai từ nhỏ chưa từng hưởng thụ dục lạc thì gọi là chưa bị dính mắc. Việc dùng hình ảnh mẹ, chị, con gái là để chuyển hóa tâm khỏi dính mắc vào dục bằng các đối tượng đáng kính. “Bhāvitakāyo” – nghĩa là thân được phát triển qua sự điều phục năm căn. Với người chưa phát triển thân ấy, thì việc hành trì quán bất tịnh là khó khăn. Vì vậy đức Phật dạy phương pháp giới luật hộ trì các căn, vì tâm được hộ trì không bị dao động bởi các cảnh dục. Ba loại thân được nêu trong kinh:
Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu 127. IV. Bhàradvàja (S.iv,110) 1) Một thời Tôn giả Pindolabhàradvàja trú ở Kosambi, tại vườn Ghosità. 2) Rồi vua Udena đi đến Tôn giả Pindolabhàradvàja; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Pindolabhàradvàja những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, vua Udena thưa với Tôn giả Pindolabhàradvàja: -- Thưa Bhàradvàja, do nhân gì, do duyên gì, những Tỷ-kheo trẻ tuổi này, còn non trẻ, tóc đen nhánh, đầy đủ với tuổi trẻ hiền thiện, trong lúc tuổi còn thanh xuân lại không tham nhiễm dục vọng, thực hành Phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh cho đến trọn đời và sống toàn thời gian một cách hoàn mãn (addhànam apàdenti)? 4) -- Thưa Ðại vương, Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã nói như sau: "Hãy đến, này các Tỷ-kheo, đối với những người chỉ là mẹ, hãy an trú tâm người mẹ. Ðối với những người chỉ là chị, hãy an trú tâm người chị. Ðối với người chỉ là con gái, hãy an trú tâm người con gái. Thưa Ðại Vương, đây là nhân, đây là duyên, do vậy các Tỷ-kheo trẻ tuổi này, còn non trẻ, tóc đen nhánh, đầy đủ với tuổi trẻ hiền thiện, trong lúc tuổi còn thanh xuân lại không tham nhiễm dục vọng, thực hành Phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh cho đến trọn đời và sống toàn thời gian một cách hoàn mãn. 5) -- Tham vọng (loba), này Bhàradvàja, là tâm. Ðôi khi đối với những người chỉ là mẹ, tham pháp khởi lên. Ðối với những người chỉ là chị, tham pháp khởi lên. Ðối với những người chỉ là con gái, tham pháp khởi lên. Này Bhàradvàja, có một nhân khác, có một duyên khác, do vậy các Tỷ-kheo trẻ tuổi này... một cách hoàn mãn? 6) -- Thưa Ðại vương, Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã nói như sau: "Hãy đến, này các Tỷ-kheo, hãy quán sát thân này dưới từ bàn chân trở lên, trên từ đảnh tóc trở xuống, bao bọc bởi da và chứa đầy bất tịnh sai biệt. Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, bao tử, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu. Thưa Ðại vương, đây là nhân, đây là duyên, do vậy các Tỷ-kheo trẻ tuổi này... sống toàn thời gian một cách hoàn mãn. 7) -- Này Bhàradvàja, đối với những Tỷ-kheo nào, thân có tu tập, giới có tu tập, tâm có tu tập, tuệ có tu tập, thời như vậy thật là dễ dàng. Và này Bhàradvàja, đối với những Tỷ-kheo nào, thân không có tu tập, giới không có tu tập, tâm không có tu tập, tuệ không có tu tập thời như vậy thật là khó khăn. Ðôi khi, này Bhàradvàja, có người nghĩ rằng: "Chúng ta sẽ tác ý bất tịnh", nhưng lại đi đến tịnh (tướng). Này Bhàradvàja, có nhân nào khác, duyên nào khác, do vậy các Tỷ-kheo trẻ tuổi này... sống toàn thời gian một cách hoàn mãn? 8) -- Thưa Ðại vương, Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã nói như sau: "Hãy đến, này các Tỷ-kheo, hãy sống hộ trì các căn. Sau khi mắt thấy sắc, chớ có nắm giữ tướng chung, chớ có nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì đó nhãn căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên; hãy thực hành chế ngự nguyên nhân ấy, hãy hộ trì nhãn căn, thực hành hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng... khi mũi ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm xúc... khi ý nhận thức các pháp, chớ có nắm giữ tướng chung, chớ có nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì đó ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên; hãy thực hành chế ngự nguyên nhân ấy, hãy hộ trì ý căn, thực hành hộ trì ý căn. Thưa Ðại vương, đây là nhân, đây là duyên, do vậy những Tỷ-kheo trẻ tuổi này... sống toàn thời gian một cách hoàn mãn. 9) -- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Bhàradvàja! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả Bhàradvàja, là lời khéo nói này của Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Chính nhân này, thưa Tôn giả Bhàradvàja, chính duyên này, do vậy các Tỷ-kheo trẻ tuổi này, còn non trẻ, tóc đen nhánh, đầy đủ với tuổi trẻ hiền thiện, trong lúc tuổi còn thanh xuân, lại không tham nhiễm dục vọng, thực hành Phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh cho đến trọn đời, sống toàn thời gian một cách hoàn mãn. 10) Tôi cũng vậy, thưa Tôn giả Bhàradvàja, khi nào tôi vào trong nội cung với thân không phòng hộ, với lời nói không phòng hộ, với tâm không phòng hộ, với niệm không an trú, với các căn không chế ngự; thời trong khi ấy, tham pháp chinh phục tôi. Nhưng thưa Tôn giả Bhàradvàja, trong khi tôi vào nội cung, với thân được phòng hộ, với lời nói được phòng hộ, với tâm được phòng hộ, với niệm được an trú, với các căn được chế ngự; thời trong khi ấy, tham pháp không chinh phục tôi. 11) Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả Bhàradvàja! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả Bhàradvàja! Thưa Tôn giả Bhàradvàja, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để cho những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Bhàradvàja dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Vậy nay, thưa Tôn giả Bhàradvàja, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Tôn giả Bhàradvàja hãy nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con xin trọn đời quy ngưỡng. |
Link nội dung: https://chuaphapluan.com/en/mon-hoc-tuong-ung-bo-hoa-giai-duc-vong-kinh-bh-radv-ja-bh-radv-jasutta-.html |